Tâm và Đạo: Đạo Phật luận giải (Phần 2)

MỤC LỤC

Vô Thường

 

Điều gì thúc đẩy vũ trụ vận động không ngừng? Sự thúc đẩy một cái vô hạn, nếu có bất cứ sự xác định nào, nó trở thành hữu hạn, và do đó, tự phủ nhận tính toàn năng và sự tồn tại của chính nó. Theo Đạo Phật, không có một điều gì bên ngoài kiểm soát và thúc đẩy sự vận động của vũ trụ. Sự vận động và thay đổi là bản chất cố hữu của mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ, đó là tính Vô Thường của chúng.

 

Chúng ta phải công nhận sự phức tạp không thể thu gọn của vũ trụ vào một nguyên nhân duy nhất. Không tồn tại một “nguồn gốc đầu tiên” cố định, không có một điểm gốc hay điểm dừng thực sự. Tất cả biểu hiện ở dạng năng lượng. Điều đó tạo nên một dòng chảy vô tận, không có điểm bắt đầu hay kết thúc.

 

Vũ trụ không phải một thực thể tĩnh tại, mà là dòng chảy năng lượng và vật chất liên tục biến đổi. Từ sự ra đời và cái chết của các ngôi sao, đến chu kỳ sinh diệt của muôn loài, mọi thứ đều tuân theo quy luật “thành – trụ – hoại – không” (sinh ra – tồn tại – suy tàn – tan biến). Đây là cân bằng động, nơi cái chết của một hệ thống trở thành nguyên liệu cho sự sống khác. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “yên bình”, mà là sự đối trọng giữa các lực đối lập. Cái chết là điều kiện cho sự sống mới, như lá rụng nuôi dưỡng đất để cây non mọc lên. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “hoàn hảo” để giữ gìn, mà là quá trình liên tục tự điều chỉnh thông qua sinh diệt.

 

Nhân – Duyên – Nghiệp – Quả

 

Tâm trí con người có khuynh hướng tìm kiếm trật tự nhất định. Tuy nhiên, khi vượt qua những giới hạn của tư duy, chúng ta lại đối diện với khả năng của sự ngẫu nhiên, một yếu tố mang tính hỗn loạn và khó đoán. Các quy luật chỉ có hiệu lực trong một phạm vi nhất định, và khi trật tự tan vỡ, chúng ta thường tìm đến sự ngẫu nhiên như một lời giải thích cho những điều không thể lý giải.

 

Vũ trụ vận hành theo quy luật Nhân Quả, sự vận hành của nó không phải là ngẫu nhiên. Nhưng tâm thức giới hạn không có khả năng đoán trước. Sự ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối đến từ tâm thức giới hạn.

 

Đạo Phật nhìn thế giới như một dòng chảy mênh mông, gồm những sự kiện nối kết lại và cùng dự phần tác động lên nhau. Và khi nhìn vào tiểu tiết, ta thấy những phân đoạn của nguyên nhân và kết quả nối đuôi nhau tạo thành những vòng lặp Nhân Quả vô tận.

 

Vạn vật không thể chối bỏ, chạy trốn nhau nếu đó là một chuỗi các kết nối được gắn kết. Đâu đó giữa vòng pháp luật, con người có thể lợi dụng kẽ hở luật pháp (lách luật) nhưng dưới con mắt của đạo lý Duyên sinh Nghiệp báo, không ai có thể khoét vách, đào tường, vượt khỏi tầm kiểm soát của luân lý. Chúng ta không thể hoàn toàn xóa bỏ hoặc thay đổi Nghiệp đã gieo. Dù có thể tạo Nghiệp mới tốt hơn để cải thiện tương lai, nhưng những Quả đã chín muồi thì khó tránh khỏi.

 

Nhân là chủ thể, Nghiệp là hành động của chủ thể, Nghiệp nào thì dẫn đến Quả đó. Nhân Quả là quá trình đó, nó lặp đi lặp lại không hồi kết. Nhưng một kết quả không chỉ đến từ Nghiệp cá nhân, mà còn do cả Nghiệp từ những cá nhân khác, họ là những Duyên (điều kiện hỗ trợ) xảy đến. Những mối liên hệ đa chiều đó tạo nên mạng lưới Duyên Khởi.

 

Thế nào là cùng Nhân khác Quả? Nắm muối (Nghiệp) bỏ vào ly nước (tâm nhỏ hẹp) thì mặn chát. Nếu bỏ vào sông lớn (tâm rộng mở, phước đức dồi dào) thì vị mặn bị pha loãng. Điều này cho thấy Nghiệp lực phụ thuộc vào “tâm lượng” và hoàn cảnh tiếp nhận.

 

Thật ra chúng ta không bao giờ hiểu được nguyên lý Nhân Quả một cách sâu sắc vì tiến trình từ Nhân đến Quả qua quá nhiều Duyên. Nhân – Duyên – Nghiệp – Quả không phải là đường thẳng.

 

Một Nhân (hành động) cần vô số Duyên (điều kiện) mới chín muồi thành Quả, giống như hạt giống cần đất, nước, ánh sáng,… mới thành cây. Sự tương tác giữa các Duyên bao gồm tương thuận (hỗ trợ), tương phản (cản trở), tương tức (nương tựa), tương nhập (thẩm thấu), tạo thành mạng lưới vô cùng phức tạp. Tiến trình Nhân Quả rất phức tạp, có khi nhanh, có khi chậm, thường thì thành Quả nhưng cũng có khi Nhân bị tiêu trừ không thành Quả.

 

Nhân xuất phát từ “ý chí hành động” của con người. Đó là mong muốn tác động và kiểm soát thế giới. Quả là hậu quả của việc gán ghép một kết quả vào một nguyên nhân cụ thể, dựa trên góc nhìn thiên lệch. Khi chúng ta thấy một sự kiện xảy ra, chúng ta gán cho nó một nguyên nhân như cách để “áp đặt trật tự” lên hỗn mang. Hậu quả được nhìn nhận qua lăng kính sự chuyển động. Đó là khi một sức mạnh này lấn át sức mạnh khác. Nguyên lý Nhân Quả là cách con người áp đặt trật tự, không phải quy luật vĩnh cửu.

 

Tính chất bất khả tư nghị (không thể nghĩ bàn) của tác động tâm thức từ Nhân đến Quả cho nên chúng ta cũng không cần mất nhiều thì giờ để tư duy về Nhân Quả.

 

“Đất sét là cần thiết để làm ra cái bình, nhưng bản thân một mình đất sét thì không đủ để làm ra cái bình. Nếu không có nước (để nhào nặn), không có bàn xoay, thì không làm ra cái bình được. Không có ý định làm cái bình thì ngay cả có đủ những điều kiện cần nói trên cũng không có cái bình. Tất cả những yếu tố trên đều phải có đủ mới làm ra được cái bình. Nếu có một yếu tố nào không có, thì chắc chắn sẽ không có cái bình được làm ra. Vì vậy, sẽ không chính xác khi nói rằng đất sét là nguyên nhân làm ra cái bình. Dù có một cánh đồng đất sét ngoài kia, nhưng không liên quan gì đến sự ra đời của những cái bình. Người ta thậm chí phải đưa thêm rất nhiều yếu tố tác nhân khác mới làm ra gạch, ngói, vách nhà,… Cách diễn đạt chính xác nhất là: nhờ vào (tùy thuộc vào, nhờ có, do có) đất sét, cái bình được làm ra.

 

Ngay cả đã đủ các yếu tố tác nhân là đất sét, nước, bàn xoay,… và cả ý định làm cái bình, nhưng trong một quá trình phức hợp, chưa chắc đã làm ra được cái bình. Ví dụ, trục bàn xoay bị ẩm ướt do thời tiết và tạo ma sát thường xuyên làm ảnh hưởng đến tốc độ vòng tua của bàn xoay, người thợ cuối cùng không thể làm ra cái bình cao để cắm hoa, mà chỉ có thể làm ra cái chén thấp. Nếu trục bàn xoay bình thường, thuận duyên, thì cái bình đã được làm ra. Nhưng trục bàn xoay bỗng nhiên không được bình thường, nghịch duyên, nên chỉ có thể làm ra cái chén. Điều kiện trục bàn xoay là nghịch duyên đối với cái bình và lại là thuận duyên đối với cái chén, mặc dù ý chí của người thực hiện là làm ra cái bình.

 

Cũng với lý nhân duyên này mà một người trên bước đường tu tập gặp phải những nghịch duyên, chướng duyên làm cho mục tiêu không thể đạt được, nếu hiểu được quy luật tự nhiên này thì không thoái chí hay nản lòng, mà nên quán chiếu thêm về nhân duyên hay nghiệp báo.”

 

Duyên Khởi

 

Đức Phật phủ nhận mọi thuyết sáng thế hay duy vật, phá bỏ tà kiến về “khởi nguyên”, hướng đến nhận thức về tính duyên sinh, vạn vật tồn tại nhờ tương tác Nhân Duyên, không có tự ngã. Đạo Phật không nhìn nhận vũ trụ bị kiểm soát bởi một thực thể duy nhất, hay một ý chí tối thượng theo cách các tôn giáo độc thần mô tả. Đức Phật khai thị giáo lý Duyên Khởi, giải thích rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều phát sinh và tồn tại dựa trên sự tương thuộc lẫn nhau. Không có bất kỳ điều gì tự mình sinh ra và tồn tại độc lập, tách biệt khỏi các yếu tố khác.

 

Tất cả mọi thứ đều có mối liên hệ, nhưng không có sự sắp đặt nào mà tự vận hành dựa trên sự tác động qua lại lẫn nhau. Không có một thực thể độc lập và tất cả những chuỗi Nhân Duyên móc nối với nhau. Sự thay đổi của hệ thống này sẽ dẫn đến sự phá vỡ trật tự của hệ thống khác, vì tất cả đều có mối liên kết, chỉ là mối liên kết ở gần sẽ biểu hiện rõ ràng và trực tiếp hơn.

 

“Mối quan hệ giữa tất cả chúng ta giống như một cái cây lớn với hàng ngàn chiếc lá trên đó. Những chiếc lá trên cùng một cành cây với ta sẽ đặc biệt gần gũi. Chúng ta thậm chí có thể cùng chia sẻ những trải nghiệm về ý thức với nhau. Có thể có ba, bốn hoặc năm lá trên cành cây của ta. Ta cũng có mối liên quan mật thiết với những chiếc lá ở cành cây bên cạnh. Chúng ta đều thuộc cùng một cành to. Họ ở gần với ta, nhưng không gần với những chiếc lá khác trên cành cây của ta. Tương tự như vậy, khi mở rộng ra xa hơn dọc theo thân cây, ta còn liên quan đến những chiếc lá hay những ý thức khác, nhưng không chặt chẽ như những người ở gần ta. Chúng ta đều là những bộ phận trên cùng một thân cây. Chúng ta có thể chia sẻ những trải nghiệm với nhau. Chúng ta biết nhau, nhưng những người trên cùng một cành cây với ta là gần gũi nhất.

 

Có nhiều cây khác trong khu rừng xinh đẹp này. Mỗi cây được kết nối với những cây khác thông qua hệ thống rễ nằm sâu dưới lòng đất. Vì vậy, dù có thể có một chiếc lá nằm trên một thân cây phía xa có vẻ rất khác biệt và xa cách đối với ta, ta vẫn có sự kết nối với chiếc lá đó. Ta có thể kết nối với tất cả những chiếc lá, nhưng ta được kết nối chặt chẽ nhất với những chiếc lá ở trên cây của ta. Và càng kết nối mật thiết hơn với những người trên cùng một nhánh. Và gần như là một với những chiếc lá trên cùng một cành với mình.”

(Hành trình về Phương Đông – Baird T. Spalding)

 

Nhận thức của chúng ta về vũ trụ thường bị giới hạn trong phạm vi cá nhân, chỉ nhìn thấy những mảnh vỡ rời rạc. Do đó, một ảo tưởng nảy sinh rằng có những thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau và tách rời khỏi chính chúng ta. Trong mạng lưới Duyên Khởi, mỗi “cái tôi” là một nút thắt tạm thời, và ý thức con người cũng là một phần trong đó, không có thực thể kiểm soát riêng biệt.

 

Duyên Khởi nói rằng, tất cả các Pháp (hiện tượng) sinh khởi đều phụ thuộc vào những Pháp khác: “Nếu cái này tồn tại thì cái kia tồn tại, nếu cái này đoạn diệt thì cái kia cũng đoạn diệt”. Duyên Khởi là tất cả những hiện tượng thế gian khởi lên là do nhiều điều kiện hay nhiều Nhân nhiều Duyên mà được thành lập.

 

Ví dụ: Một cây lúa sinh ra từ hạt giống (Nhân) nhờ đất, nước, ánh sáng (Duyên).

 

Đạo Phật có câu:

“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc

Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”

Nghĩa là:

“Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc,

Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”

Câu kinh chỉ ra sự tương quan, tương hỗ giữa Sắc và Không.

 

– Sắc: Chỉ mọi hiện tượng vật chất, hình tướng có thể cảm nhận bằng giác quan.

– Không: Chẳng phải là “trống rỗng” theo nghĩa hư vô, mà là sự vắng mặt của tự tính độc lập. Mọi sự vật đều tồn tại nhờ duyên sinh, không có bản chất cố định.

 

Ví dụ:

– Sóng (Sắc) là biểu hiện của nước (Không). Sóng không khác nước, nước không khác sóng. Khi sóng tan, nước vẫn tồn tại. Sự “mất đi” của sóng chỉ là trở về với bản chất nguyên thủy.

– Một đám mây (Sắc) không tồn tại độc lập, mà là sự kết hợp của hơi nước, nhiệt độ, áp suất,… Khi các điều kiện này thay đổi, đám mây tan biến (Không). Đám mây và sự tan biến của nó chỉ là hai trạng thái của một quá trình duyên sinh.

– Một cái bàn (Sắc) chỉ là tên gọi cho sự kết hợp của gỗ, đinh, công thợ,… Nếu tách rời các yếu tố này, “bàn” không còn tồn tại (Không).

 

“Sắc tức là Không”: Hình tướng, vật chất chính là tánh Không khi được nhìn nhận ở cấp độ bản chất sâu xa nhất. Sự “có mặt” của Sắc chỉ là sự biểu hiện tạm thời của tánh Không.

 

“Không tức là Sắc”: Đồng thời, tánh Không chính là nền tảng cho sự biểu hiện của mọi hình tướng. Nếu chẳng có tánh Không, thì chẳng có sự sinh khởi và tồn tại của bất kỳ hình tướng nào.

 

Đây là mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực. Khả năng là Không, nhưng không phải hoàn toàn không có gì mà chỉ là chưa hiện hữu rõ ràng. Hiện thực là Sắc, cái tồn tại thực nhưng phải bắt nguồn từ khả năng. Nghĩa là, nếu không có khả năng thì cũng không có hiện thực được. Còn hiện thực mất khả năng tồn tại thì cũng sẽ trở thành Không.

 

Vì vậy, ta hiểu rằng, mọi sự vật dù có hình tướng cụ thể đến đâu, về bản chất đều không có một thực thể độc lập, cố định. Ngược lại, không gian, sự trống rỗng cũng luôn chứa đựng tiềm năng để tạo thành sự vật mới.

 

Thế giới từ tâm thức

 

Những gì vượt quá ngưỡng nhận thức, dù quá lớn hay quá nhỏ, đều nằm ngoài phạm vi tồn tại mà chúng ta có thể nắm bắt. Những giới hạn này tạo ra những “sự vật” riêng biệt, và sự đan xen của những “khoảng trống” tách biệt chúng. Với nhận thức giới hạn đó mà mọi vật tồn tại trong thế giới con người. Những khoảng trống này không hư vô tuyệt đối, đó chỉ là những khía cạnh của thực tại mà nhận thức giới hạn chưa thể vươn tới.

 

Mọi sự bất định xảy ra do tâm thức giới hạn. Tâm thức giới hạn này phân chia thế giới thành “có” và “không”, tạo ra ảo giác về một thực tại chia cắt và thay đổi. Nhận ra sự thật để không còn đồng nhất với những biểu hiện tạm thời của tâm thức, ta sẽ trở về trạng thái tĩnh lặng vốn có. Thực tại tĩnh lặng vô hạn và không phân biệt, nhưng không phải trống rỗng tuyệt đối hay cô đặc tuyệt đối, điều ta muốn ám chỉ là sự liên kết của toàn thể.

 

Ta diễn giải mọi thứ theo sự nhận thức của tâm hay theo tưởng tượng về thứ vượt ngoài khả năng của tâm? Vũ trụ chỉ tồn tại và diễn biến mà không nhận thức hay tưởng tưởng tượng, đó là câu chuyện xoay quanh phạm vi của tính con người. Tâm thức giới hạn nảy sinh cơ chế so sánh và phân biệt. Nếu đã vô hạn thì chẳng còn gì để nhận thức hay tưởng tượng. Chỉ có một tổng thể im lìm không lay chuyển, vượt ngoài mọi đối đãi nhị nguyên – ta có thể gọi nó là Chân Như.

 

“Chúng ta chỉ quan tâm đến những món trang sức bằng vàng, mà không quan tâm đến bản chất của chúng đều chỉ là vàng. Giữa những món trang sức khác nhau không hề có liên hệ nhân quả. Khi ta nấu chảy một món trang sức để làm thành món khác, không hề có liên hệ nhân quả giữa hai món. Yếu tố chung là vàng, nhưng ta không thể nói vàng là nguyên nhân. Vàng không thể được gọi là nguyên nhân, vì tự thân vàng chẳng tạo ra món trang sức nào. Nó được phản chiếu trong tâm như tên gọi và hình dáng riêng của món trang sức, nhưng tất cả đều là vàng. Cũng cách đó, thực tại làm cho mọi vật khả hữu, nhưng không có gì làm cho một vật như nó là, danh xưng và hình tướng của nó từ thực tại mà ra.”

– Osho –

 

Ý thức

 

Nếu dựa theo quan điểm Lục Căn trong Đạo Phật, thì ngoài 5 căn Mắt/Tai/Mũi/Lưỡi/Thân ra thì Ý là “giác quan” thứ 6, và nó để tiếp nhận Pháp, Pháp là đối tượng của ý, đó là những suy nghĩ. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm, ý thức. Thức là hành vi của Ý. Ý thức là chỉ việc nhận ra, tiếp nhận những suy nghĩ. Cũng giống như 5 giác quan kia, mỗi thứ đều bị hấp dẫn với Sắc/Âm/Hương/Vị/Xúc thì Ý bị hấp dẫn với Pháp là những suy nghĩ, sáng kiến, tưởng tượng,… khiến cho ta lan man và vướng mắc vào chúng.

 

Ý thức là một sự tự nhận thức. Nhưng ý thức thì không thể nhận biết được chính nó, vì sự nhận biết chỉ xảy ra khi có sự tách biệt chủ thể và đối tượng. Cũng giống như mắt không thể nhìn thấy mắt, mũi không thể biết mùi của mũi, miệng không thể biết vị của miệng,…

 

Ý thức là sản phẩm của sự tương tác giữa Nhân (yếu tố chủ quan) và Duyên (yếu tố khách quan). Có thể nói, ý thức là một sự phản ánh, nó xảy ra dựa trên các điều kiện. Điều kiện từ ngoại cảnh là Duyên, điều kiện từ chủ thể là Nhân thông qua việc làm, hành động. Những hành động trong quá khứ đều để lại dấu ấn trong tâm thức. Một “hành động bản ngã” sẽ củng cố một “ý thức bản ngã”, và “ý thức bản ngã” lại thúc đẩy những “hành động bản ngã”. Đây là vòng luẩn quẩn giữa hành động và ý thức trong dòng chảy không ngừng của cuộc sống.

 

Năng lượng khổ của ý thức là dòng chảy liên tục trong luân hồi. Chúng ta là tấm gương phản chiếu dòng chảy đó, nhưng lại tự nhận là dòng chảy mà không nhận ra sự “trong suốt” của mình. Khổ chỉ tồn tại khi ta đồng nhất mình với hình ảnh trong gương. Ta giải phóng năng lượng khổ bằng cách gây khổ cho người khác, chúng ta gây khổ lẫn nhau và không ngừng gieo thêm nhiều hạt giống khổ, một hành động nảy sinh từ khổ gọi là Nghiệp.

 

(Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma có nghĩa là “làm hay hành động”. Nghiệp là hành động chứ không phải là kết quả của hành động như chúng ta thường hiểu lầm.)

 

Trong một thế giới đau khổ không thể tránh khỏi việc có ai đó tìm đến ta và trả lại những đau khổ từ hạt giống ta đã gieo. Vạn vật không thể chối bỏ, chạy trốn nhau nếu đó là một chuỗi các kết nối được gắn kết. Việc trả Nghiệp là người khác trả cho ta một hành động gây khổ bởi sự khổ của họ, và chúng ta cứ vướng mắc trong cái vòng luẩn quẩn đó không thoát ra được. Đó là lý do Đức Phật không chỉ muốn giữ giác ngộ cho riêng mình, mà luôn vì một thế giới không còn khổ bằng sự chấm dứt Vô Minh. Vô minh là viên gạch đầu tiên trong chuỗi 12 Nhân Duyên.

 

Vòng tròn Duyên Khởi gồm 12 Nhân Duyên, có thể coi là 12 mắt xích được liên kết, đó là: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử.

 

Trong vòng tròn Duyên Khởi, mỗi mắt xích vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả. Duyên này kết chặt với Duyên kia tạo thành một chuỗi nhân quả khép kín. Phá vỡ một mắt xích, cả vòng xoáy tan rã. Duyên này diệt, Duyên kia sẽ diệt và toàn bộ 12 Duyên cũng sẽ diệt. Đây là chìa khoá chấm dứt đau khổ, chấm dứt luân hồi.

 

Mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, mỗi yếu tố là nguyên nhân và cũng là kết quả của yếu tố khác. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong luân hồi. Một con người hoàn thiện bao gồm tâm lý và cơ thể vật lý (Danh Sắc), đây là chủ thể, là nguyên nhân chính (Nhân) – tâm lý, vật lý là cơ sở để tiếp nhận Duyên (điều kiện hỗ trợ). Danh Sắc tiếp nhận các điều kiện bên ngoài thông qua 6 Căn (Lục Nhập). Khi 6 Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với 6 Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra Thọ (cảm giác, cảm xúc). Từ tiếp xúc mà khởi lên thích hay không thích. Từ Thọ sinh ra Ái, đó là khát khao nắm giữ hoặc xua đuổi. Ví dụ, Thọ lạc (cảm giác dễ chịu) sinh ra Ái dục (muốn nắm giữ), Thọ khổ (cảm giác khó chịu) sinh ra Ái sân (muốn xua đuổi), Thọ xả (cảm giác trung tính) sinh ra Ái si (mơ hồ, không rõ ràng). Tuy nhiên, Ái chỉ là một tâm lí phát sinh ra do con người khởi lên thích chứ chưa nắm bắt, chưa chạy theo đối tượng. Từ Ái sinh ra Thủ (chấp thủ), Thủ là truy bắt đối tượng theo cái Ái của mình. Tất cả những chấp thủ này đều để lại năng lượng và dần tích lũy thành các kinh nghiệm về đời sống của cái tôi. Hữu là trạng thái tồn tại được định hình bởi những năng lượng đó. Hữu là kết quả của những gì con người đã chấp thủ và tích lũy trong quá trình sống. Nó là mầm mống nuôi dưỡng cho luân hồi và đau khổ không chấm dứt.

 

Ý thức thuần khiết

 

Những gì vượt quá khả năng nhận thức của cơ thể vật lý, đều nằm ngoài phạm vi mà chúng ta có thể nắm bắt. Điều này dẫn đến sự tồn tại một ý thức giới hạn của thân tâm. Những giới hạn này tạo ra các ranh giới mà ta không dám bước qua – những nỗi sợ mơ hồ.

 

Sợ hãi là biểu hiện của ý thức giới hạn. Sợ hãi là rào cản ngăn ta làm bất cứ điều gì đáng làm. Khi mà vẫn còn tự đồng hóa trong những ranh giới của tầm nhìn cá nhân, ta sẽ không bao giờ hết sợ hãi. Nhận ra mình không chỉ là “ý thức thân tâm” (một giọt nước) mà vốn thuộc về cái “ý thức toàn thể” (đại dương). Ý thức vô hạn đó không bị ràng buộc bởi bất cứ ranh giới và rào cản nào khiến nó sợ hãi cả. Ý thức vô hạn “không có khả năng” nhận thức sự hữu hạn, vì với tầm nhìn vô hạn đã không còn sự phân biệt, không còn gắn liền với các hình tướng, và ngay cả chính nó dường như chẳng tồn tại.

 

Trong giới hạn của cá nhân, “ý thức thân tâm” khẳng định muôn vàn hình tướng và sự tách biệt. Còn cái “ý thức toàn thể” với nhận thức phá vỡ mọi ranh giới, đã không còn giới hạn và tính phân biệt, không còn quy ước, khuôn khổ và định danh nào, một trạng thái “không” vô cùng tĩnh lặng và không còn âm thanh của sợ hãi, không còn nhìn mọi thứ theo một góc cạnh nào cả, trở về với bản chất nguyên sơ là một thể “ý thức thuần khiết” không bị ràng buộc bởi các giới hạn, không còn định kiến hay sợ hãi.

 

“Ý thức thuần khiết” như là ánh nắng. Nhưng khi ánh nắng biểu hiện thông qua môi trường, nó bị đồng hóa bởi những gì nó chiếu vào.

 

– Khi mặt trời mọc và một tia nắng đi vào qua cửa sổ, nó sẽ chiếu xuống đâu?

– Lên bức tường phía tây, và tia nắng mang dáng dấp của bức tường.

– Nếu không có bức tường phía tây, nó sẽ chiếu xuống đâu?

– Lên mặt đất, và tia nắng trở thành mặt đất.

– Nếu không có mặt đất, nó sẽ chiếu xuống đâu?

– Lên mặt nước, và tia nắng mềm mại như mặt nước.

– Nếu không có nước, nó sẽ chiếu xuống đâu?

– Nó không chiếu xuống đâu cả.

Cũng như vậy, nơi nào không còn sự bám víu vào thân và tâm thì “ý thức thuần khiết” không phóng chiếu vào đó, nó là chính nó và không còn sự đồng hóa nào cả.

 

Đây là quá trình phá vỡ ảo tưởng của “ý thức thân tâm”, hướng đến một sự chuyển dịch từ cảm giác hạn chế sang một ý thức rộng mở và kết nối hơn. Không còn là một giọt nước riêng biệt mà nhận ra mình là đại dương rộng lớn và không giới hạn. Đây không phải là sự trống rỗng hư vô mà là khám phá một nền tảng sâu sắc hơn, giải phóng hơn của sự tồn tại ngoài khung của bản ngã được tạo dựng.

 

Thiền định hướng đến trải nghiệm “tan biến ranh giới cá nhân”, cảm nhận sự hợp nhất với vũ trụ.

 

Suy nghĩ và tinh thần

 

* Suy nghĩ

 

Suy nghĩ của chúng ta không đơn thuần chỉ là những ý tưởng thoáng qua. Chúng liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một dòng chảy vô tận. Những suy nghĩ giống như những con sóng trên một dòng sông. Mỗi con sóng là một ý nghĩ, một cảm xúc. Những con sóng này nối tiếp nhau, tạo thành dòng chảy của cuộc đời. Cứ như vậy, suy nghĩ của chúng ta là kết quả của những suy nghĩ trong quá khứ, thậm chí có thể là từ những kiếp sống trước.

 

Suy nghĩ giống như những giọng nói bên trong nội tâm và ta không thể dừng nó lại. Nó xuất hiện khi thân xác này bắt đầu nhận thức được thế giới. Đó là những giọng nói không ngừng thúc đẩy ta. Thân xác khác nhau, mỗi cá nhân lại có sự thúc đẩy khác nhau, tạo nên tính cách khác nhau. Ta không biết tại sao ta muốn một điều, ta không tự do khỏi mong muốn cá nhân. Nhưng khi ta “thức tỉnh” khỏi “giấc mơ” cá nhân, ta tự do khỏi mong muốn, và ở một “chiều cao hơn”, không có tính cá nhân nào. Vậy thì, giọng nói nội tâm chẳng phải chính là “ảo tưởng” đến từ thân xác hay sao?

 

Những suy nghĩ là sự kết hợp phức tạp giữa bản năng, ký ức và ảnh hưởng từ môi trường. Khi chúng ta nhận thức được tính tương đối của những tiếng nói này, chúng ta có thể vượt qua giới hạn của bản ngã và kết nối với một thực tại rộng lớn hơn. Nó là sự giao thoa giữa ý thức cá nhân và vũ trụ bao la.

 

* Tinh thần

 

Tinh thần là gì? “Tinh” nghĩa là tinh hoa, tinh túy, tinh khiết. Nó ám chỉ những gì quý giá nhất, là cốt lõi, bản chất của một sự vật, hiện tượng. “Thần” nghĩa là sự ám chỉ phần phi vật chất, không thể nhìn thấy, nhưng lại chi phối hành vi, tư tưởng và cảm xúc của con người. Tinh thần là năng lượng, là sức mạnh nội tại bên trong con người.

 

Nguồn năng lượng tinh thần từ đâu mà sinh ra? Ta có thể làm chủ hoặc thay đổi nó không?

 

Nhiều triết gia và tôn giáo quan niệm rằng tinh thần là một phần của vũ trụ, là sợi dây liên kết giữa con người với một thực tại cao hơn. Năng lượng tinh thần có thể được coi là một dạng năng lượng vũ trụ. Nó tồn tại trong mỗi con người như một dòng chảy nhỏ thuộc về cả dòng chảy lớn.

 

Năng lượng tinh thần không có tiếng nói, nhưng nó là nguồn gốc tiềm ẩn của tiếng nói nội tâm. Nó chi phối và thúc đẩy ta trong lặng lẽ. Ta luôn bị thúc đẩy để trở thành tính cách mà sẽ dẫn lối ta đến với vận mệnh của mình, và toàn bộ năng lượng phải được chuyển hóa thì ta mới thoát khỏi sự ràng buộc ấy. Những hành trình sẽ dần đi đến kết thúc để rồi rơi vào lãng quên, quên càng nhiều thì cái tâm càng trong sạch. Ta sẽ giống như một chiếc bình rỗng để rồi lại đón nhận những điều mới mẻ khác.

 

Có những động cơ sâu kín trong tâm hồn con người mà ta không hoàn toàn ý thức được. Đó là sự thúc đẩy vô hình tạo nên những ý muốn, và ta sẽ hành động theo tính cách của mình. Tính cách được tạo nên bởi những ý muốn vô thức, từ đó sẽ dẫn đến những gì mà ta theo đuổi và lựa chọn. Có những cơ hội và nguồn lực từ bên ngoài được trao cho ta. Nhưng ta lại không lựa chọn dựa trên lợi ích tối đa, mà thường thuận theo ý muốn vô thức. Số phận được định trước dựa trên những ý muốn vô thức và không thể nào thay đổi. Sự thúc đẩy từ vũ trụ đang làm chủ tâm trí con người. Ta không thể nào lựa chọn được ý muốn của mình.

 

Chúng ta thường gắn mác lẫn nhau thông qua tính cách. Đó là những lựa chọn hoặc sự thúc đẩy, từ đó cho thấy mong muốn của bản thân và người khác. Ta nhận ra rằng mong muốn không ổn định qua thời gian. Nó xuất hiện như từng đợt sóng năng lượng của biển cả vũ trụ và ta không thể kiểm soát được. Nguồn năng lượng đó luôn thay đổi bất thường. Hôm nay ta muốn một điều gì đó, nhưng ngày mai ta lại muốn điều khác. Điều đó có nghĩa là con người không bao giờ hoàn toàn giống nhau ở mọi thời điểm. Ta sẽ không thể tìm được chính mình (bản chất chân thật) trong những mong muốn. Mong muốn xuất hiện rồi lại biến mất, nhưng tồn tại một bản chất sâu xa, không thay đổi bên trong mỗi con người.

 

Mọi sinh vật đều là một phần của hệ sinh thái lớn. Chúng ta không thể tách rời khỏi môi trường xung quanh. Những mong muốn của chúng ta cũng không phải là sản phẩm của một cá nhân đơn lẻ mà là kết quả của sự tương tác giữa chúng ta với thế giới bên ngoài.

 

Con người là một tiến trình hoạt động trong hình thức một thân xác, cái thân xác mà ta vẫn định nghĩa nó là sự sống. Và cái tiến trình đó cũng chỉ là một phần trong một tiến trình lớn hơn mà thôi. Cái lớn hơn chi phối cái nhỏ hơn. Nếu ta là một con cá trong dòng chảy, ta không thể thoát ra ngoài dòng chảy, nhưng cũng không thể thay đổi sự quyết định của dòng chảy đó. Những gì xảy ra với mỗi người là kết quả của một chuỗi sự kiện phức tạp, vượt xa tầm kiểm soát của cá nhân.

 

Trong vũ trụ, mọi thứ đều có sự tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau trong từng yếu tố, sự tách biệt tuyệt đối chỉ là ảo tưởng. Ý tưởng về sự độc lập của bản ngã chỉ là một góc nhìn hạn hẹp, đó là sản phẩm đến từ sự giới hạn nhận thức của con người. Khái niệm “con người” thực chất là một phạm vi những đặc tính mà nó tự đồng hoá mình với những biểu hiện đó. Nhưng sự tồn tại của con người luôn cần gắn liền với môi trường sống của nó, con người vốn không độc lập.

 

Thân xác con người vốn không hoàn toàn thuộc về chính nó. Môi trường sống chi phối thân xác, nó lệ thuộc vào không khí, nhiệt độ, thức ăn, nước uống,… để tồn tại. Thân xác không độc lập và những suy nghĩ cũng thế, vậy thì bản ngã là một ảo tưởng. Sự ích kỷ của bản ngã làm cho con người không thể hòa nhập với vũ trụ. Chỉ khi nào ta không thể vượt qua được giới hạn của bản thân, ta mới chịu nhìn vào khoảng trống thiếu sót của mình. Đó là khoảng trống vô hạn, nó có sức hút mãnh liệt thôi thúc ta khám những gì tiềm ẩn trong đó. Để khám phá khoảng trống này, con người cần vượt qua giới hạn của bản ngã và tìm kiếm sự kết nối với một cái gì đó lớn lao hơn.

 

Dòng chảy vũ trụ bao trùm và cũng tồn tại bên trong nội tại vạn vật, từ đó chi phối và kéo theo tất cả. Nhưng đa số chúng ta vẫn chấp nhặt vào tiểu tiết, và chỉ dám nghĩ trong thế giới quan của mình. Vậy nên, tâm trí không thể mở rộng để nhìn thấy cái bao quát và lớn lao hơn. Mỗi sự xuất hiện và biến mất, đến và đi đều là vì dòng chảy đó mà không bởi một nguyên nhân cụ thể nào. Đôi khi, ta phát hiện có nhiều thứ tương đồng xảy ra vào cùng một không gian và thời điểm. Đó là một sự biến chuyển lớn lao với sự tác động bao phủ lên những thứ thuộc nội vi của nó, và cái ý thức nhỏ bé trong nó thì khó mà có thể nhận ra được.

 

Đọc các bài tương tự tại link sau:

 

Tâm và Đạo: Tôi là ai? (Phần 1)

 

Tâm và Đạo: Thực tại (Phần 3)

Chia sẻ:
Facebook
Bài viết liên quan

Một loạt bài viết của Tạ Đức Chính, một chuyên gia kinh tế ở Úc. Để mọi người hiểu được Deep State là gì? TT Trump đang chiến đấu với ai? Tại sao nhiều người lại ủng hộ ông tát cạn đầm lầy? Đây là loạt bài về đồng Dollars,...

Những trường phái nghệ thuật, với tính độc đáo và sự đa dạng, đã tạo nên những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và di sản nghệ thuật. Bài viết này sẽ đưa bạn vào một hành trình khám phá qua các trường phái nghệ thuật đa dạng và...

Có biết bao nhiêu phong cách thiết kế và chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những tác phẩm nghệ thuật và công trình độc đáo. Hãy cùng khám phá những phong cách thiết kế đa dạng và đặc trưng trong bài viết này.   Phong cách...

Bất kỳ một tổ chức nào không thể tồn tại mà không có một nhà lãnh đạo. Nhưng chẳng ai có thể lãnh đạo một mình. Anh ta không thể tự quản lý ngân sách, tự thi hành luật và tự điều phối những dự án. Anh ta cần nắm...

NỔI BẬT
Theo dõi chúng tôi trên MXH:
Liên hệ:
contact.hbth@gmail.com
© 2023 hatbuitamhon. All rights reserved.
Scroll to Top