Tâm và Đạo

MỤC LỤC

Khi chúng ta bắt đầu khám phá bên trong thế giới nội tâm, chúng ta nhận ra rằng hình ảnh mà chúng ta thấy về bản thân không phản ánh đúng bản chất thực sự của mình. Nó được hình thành qua những gì ta được thấy, được nghe và tiếp xúc từ thế giới xung quanh. Ta định nghĩa về bản thân mình thông qua những gì đã thu nạp, đó là những kiến thức, logic và định kiến của lý trí. Chúng làm cho tầm nhìn của ta có một bức màn che mờ. Chúng ta muốn vén bức màn ra để tìm thấy sự thật, tìm thấy bản thể con người chân thực nơi ta.

 

Con người hoặc là không thể, hoặc là chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngoài của sự vật, hiện tượng. Quá trình nhận thức của con người, chẳng qua chỉ là quá trình ý thức đi tìm lại chính bản thân mình dưới hình thức khác mà thôi.

 

Nếu hữu thức là những suy nghĩ có ý thức trong đầu, thì khoảng trống nằm giữa những suy nghĩ thuộc về vô thức, đó là trạng thái mà ta không suy nghĩ. Ta chỉ có thể quan sát phần hữu thức nhưng cũng tìm cách khám phá cho được phần vô thức.

 

Cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn. Vật chất đó luôn ở trong trạng thái vận động và từ đó này sinh ra những mặt đối lập chất chứa trong nó, như nóng và lạnh, khô và ướt, sinh ra và chết đi,… Đây là một sự thoát ly cách nhìn trực quan về vật chất, muốn tìm một bản chất sâu sắc hơn đang ẩn giấu phía sau các hiện tượng cảm tính bề ngoài các sự vật. Vật chất đó cũng được quy về những cái trừu tượng như Không (Phật giáo), Đạo (Lão Trang), Cô Cực (Kinh Dịch).

 

Đạo Tâm là cái tâm của toàn thể vũ trụ, là cái tuyệt đối, là cái vô hình tướng, là nguồn gốc của vạn vật, là cái tâm nhất nguyên (nguyên tố đầu tiên). Nguyên tố đầu tiên là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật. Ví như các loài thảo mộc đều được tạo ra từ các hạt giống, và một hạt giống có nghĩa là sự tái tạo từ hình thái trước đó. Từ hạt giống mọc ra một cây con rồi thành cây lớn, nhưng nguồn gốc chỉ là một hạt giống. Mỗi phần của con người phản ánh hình ảnh của toàn bộ con người. Mỗi tế bào đều mang thông tin về toàn thể con người và có thể cấy ghép hoặc phát triển thành cả cơ quan, thậm chí cả con người.

 

Thân Tâm là cái tâm bị giới hạn trong thân xác, nên nó là tương đối, là vạn vật hữu hình (dựa trên nhận thức của thân xác), là cái tâm nhị nguyên (hai nguyên tố đối lập). Cái tâm của vũ trụ nằm trong vô thức. Cái tâm của thân xác có thể thấy trong hữu thức.

 

Trong bụi nước biển có vô số vi hạt. Khi chưa bị tách ra khỏi biển những vi hạt này đều là biển. Nhưng ngay khi có sự tách biệt chúng trở thành những vi hạt cá nhân. Tuy nhiên vị mặn của nước, dù là nước biển hay nước của các vi hạt kia thì như nhau. Cũng như vị mặn có trong toàn thể nước biển, thì sự hiện hữu trong hình tướng con người có khả năng bao trùm tất cả, và nó vốn có sẵn. Nhưng khi đã tự điều kiện hóa nó với hình tướng thân xác, do đó trở nên hữu hạn và chỉ quan tâm đến việc bảo vệ và giữ gìn thân xác.

 

Thân Tâm

 

Thân xác là sản phẩm của tinh chất thực phẩm. Cần phải thấy rõ rằng ý thức khiến chúng ta khác với một khối thịt vô hồn, nó đã khống chế chúng ta như một kẻ lạ mặt trong đêm tối mà không hề có một nguyên nhân rõ rệt.

 

Biểu hiện của Thân Tâm là ý thức, ý thức là thứ thuộc về thân xác. Bất cứ nơi nào vật chất tự tổ chức thành một cơ thể ổn định thì ý thức tự xuất hiện. Ý thức là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra. Khi thân xác và ý thức hình thành sẽ sinh ra Bản Ngã.

 

Tài năng là thuộc về thân xác, nó giới hạn trong tổ hợp của vật chất. Tài năng có sự cải thiện thông qua nỗ lực, nhưng không thể vượt qua giới hạn của thân xác.

 

Thế giới thâm nhập vào ta thông qua các giác quan, đó là cánh cửa mở để liên kết nội tâm với thế giới. Hình thù của vạn vật được quy định dựa trên các giác quan. Các giác quan bị giới hạn trong những gì nó có thể cảm nhận, nhưng có rất nhiều thứ vô hình tướng mà nó không thể nhận diện. Chúng ta luôn cố gắng khám phá những thứ vượt ra ngoài giới hạn của thân xác. Thông thường, mọi người chỉ tin những gì mình nhìn thấy, nhưng cuộc sống không chỉ là những gì hiện ra trước mắt.

 

Những kinh nghiệm được định hình bởi các giác quan sẽ ghi nhớ và tạo thành ký ức. Suy nghĩ là hoạt động của Thân Tâm. Ký ức trở thành nguyên liệu cho quá trình suy nghĩ. Suy nghĩ không thể hoạt động trong trống rỗng, nó cần nguyên liệu là ký ức.

 

Thế giới của Thân Tâm là thế giới của ký ức, nó liên hệ mật thiết với thân xác, nó của riêng mỗi cá nhân và không chia sẻ được. Không ai có thể thâm nhập được thế giới của cá nhân để thấy như cá nhân đó thấy. Ký ức là biểu hiện của ý thức. Ý thức là sự phản ánh của thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người. Đó là khả năng nhận biết của thân xác. Đúng hay sai tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi cá nhân. Sự khác biệt giữa đúng và sai chỉ có giá trị đối với cá nhân. Ta phải chấp nhận việc người khác không hiểu mình, vì mỗi người có thể giới quan của riêng họ và ý thức của họ sống trọn vẹn trong đó.

 

Ý thức thuộc về thân xác, thân xác là riêng biệt, ta không thể đoán biết những gì thuộc về thân xác. Mọi ý nghĩ xuất hiện từ sự thôi thúc mang tính cá nhân, ta chỉ nghĩ những gì mình muốn nghĩ. Vì vậy, ý nghĩ luôn hạn hẹp và không thực sự trung lập, tính đúng sai của nó cũng định nghĩa theo góc nhìn cá nhân.

 

Trong thế giới của cá nhân, ta thực sự một mình, ta nằm gọn trong giấc mộng mà ta cho đó là cuộc đời. Khi không còn bị bức màn ý thức của chính ta che mờ, ta mới nhìn ra bản chất của bản thân và người khác.

 

Cách thức của suy nghĩ là so sánh dựa trên cảm nhận khi trạng thái thay đổi, từ sự khác biệt đó ta đưa ra kết luận về tính phân cực. Sự phân cực tạo nên hai chiều hướng và không bao giờ chấm dứt. Vì vậy, bản chất của Thân Tâm là phân chia và gây đối nghịch. Mọi thứ mà ta có thể nhận thức được đều thuộc về hai chiều hướng đối nghịch: thiện ác, đúng sai, hay dở,… Ngôn từ sinh ra để biểu hiện cho ý thức. Do đó, tranh luận bằng ngôn từ gây ra chia rẽ theo hai chiều hướng.

 

Đau khổ và khoái lạc cũng là hai chiều hướng của sự phân cực đó. Suốt nhiều năm chúng ta tìm kiếm hạnh phúc. Ta không thể tìm ra nó, vì một cái mà bản chất vốn dĩ bất an thì không thể nào an. Người ta đau khổ và tìm thuốc giảm đau trong khoái lạc. Tất cả hạnh phúc mà con người có thể hình dung được là ở trong sự bảo đảm cho khoái lạc được tái diễn. Đau khổ và khoái lạc luôn đi cùng với nhau. Thoát ra khỏi một cái thì cũng có nghĩa là thoát ra khỏi cả hai. Nếu ta không màng đến khoái lạc, thì ta chẳng sợ gì đau khổ. Khi mà ta không còn đồng nhất với ý thức nữa, thì ta cũng thoát khỏi những đau khổ và khoái lạc mà nó đem lại.

 

Tham ái là ký ức của khoái lạc, và sợ hãi là ký ức của đau khổ. Cả hai làm cho tâm bất an. Chính cái tâm tham ái đẻ ra những ý tưởng về cải thiện và phát triển để đi đến sự hoàn hảo. Chính tâm gây rối nhưng lại nói về ổn định, phá hoại nhưng lại tìm kiếm sự an toàn.

 

Có một sự cải thiện nào đó. Hạnh phúc mà ta tự cho là đã tìm được thì rất mong manh, bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào cũng có thể làm nó tan vỡ. Cái mà ta gọi là an chẳng qua chỉ là sự nhiễu loạn đi vắng. Nó không đáng được gọi là an. Thật sự an thì không thể bị quấy nhiễu. Điều mà chúng ta gọi là cải thiện chỉ là sự thay đổi từ trạng thái không vừa ý sang trạng thái vừa ý.

 

Suy ngẫm kỹ thì khoái lạc chẳng qua chỉ là phản ứng của lòng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng ta. Các sự vật này khi thì tạo vui, lúc thì gây khổ. Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tuỳ lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng hạnh phúc không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ.

 

Chúng ta cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi, và càng sợ hãi lại càng đau khổ. Không hề có cái như là rèn luyện thái độ, và cũng chẳng cần phải rèn luyện. Rèn luyện là cho tương lai, rèn luyện thái độ là dấu hiệu của sợ hãi. Nguyên nhân của sợ hãi là ký ức. Ký ức về đau khổ đã qua và nhận định về sự tái diễn của nó làm cho con người sợ hãi về tương lai, người nào chưa từng đau khổ thì không sợ hãi.

 

Ta cần một người tích cực để được lây nhiễm sự tích cực, ta cần một người mạnh mẽ để được lây nhiễm sự mạnh mẽ. Ta luôn cần một hình mẫu để sao chép, ta không thể độc lập vì không biết mình là ai. Nhưng chỉ trong cô đơn ta mới chịu nhìn vào nội tâm chính mình. Ta là cái chung hay là cái khác biệt? Cái khác biệt không đem lại sự đồng cảm, nó khiến ta tự ti hoặc tự mãn, ta thoát khỏi hai chiều hướng đó bằng cách tìm về cái chung. Cái chung thì không phân biệt và không giao động khiến ta trở nên tĩnh lặng.

 

Đạo Tâm

 

Nguyên nhân của sợ hãi và ham muốn là do ta tự cho mình là xác thân này, vì sợ hãi và ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Thật ra, chúng ta là cái tổng thể trong đó tất cả tính cách con người xuất hiện và biến mất, còn tự thân cái tổng thể thì phi nhân cách. Khi đã dứt khoát từ bỏ sự nhận diện sai lầm với thân xác, bản tính đích thực của chúng ta tự hiển hiện là vô hình tướng, vô thân, vô tâm. Trong trạng thái này, chúng ta không còn những cần cầu, và do đó không có sự tồn tại của phiền não. Ta trở về với bản thể của ta, trở về với vô thức thông qua Thiền.

 

Sự thật khi được nhìn nhận trong sự giới hạn nó sẽ trở nên sai lệch. Một phần của sự thật chỉ là sự giả dối. Trong giới hạn của Thân Tâm, ta chỉ có khả năng thấy một phần, nhưng không thể nhìn thấy cái tổng thể. Khi nhận ra cái ta biết là hư giả, ta phải tìm về với nguồn gốc của nó. Thế giới của Đạo Tâm chỉ có cái chung, sự sáng suốt, phẩm chất chân thật, không có sự phân biệt cá nhân và toàn thể. Tất cả là một và một là tất cả. Tham vọng thuộc về con người, giải thoát là thoát khỏi những gì thuộc về con người.

 

Những hình tướng mà ta nhận thức được là sản phẩm của Thân Tâm, nó bị giới hạn trong các giác quan của thân xác nên nó không thể là tuyệt đối, nó là hư giả, nó là tương đối. Cái gì được ta thấy là hư giả thì tự nó tan biến. Bản chất của ảo tưởng là tự nó biến mất khi được tìm hiểu. Muốn biết về cái thật ta phải phủ định cái không thật. Ta phủ định cái không là để trở về với cái ta là.

 

Những gì ta có thể chỉ ra như này, như kia thì không thể nào là chính ta. Ta là cái không thể nhận thức được, hay tưởng tượng ra được. Vì chừng nào biết có nghĩa là sự mô tả theo những gì đã biết, qua nhận thức hay khái niệm, đều bị giới hạn trong thân xác. Biết mình không biết, chính là cái biết thật. Sự khôn ngoan thực sự nằm ở việc nhận ra sự thiếu hiểu biết của chính mình.

 

Thay vì nhìn sự vật theo tưởng tượng, hãy biết cách nhìn chúng như chúng là. Khi có thể thấy bất cứ cái gì như chính nó là, thì ta cũng thấy chính ta như ta là. Điều này cũng như lau sạch một tấm gương. Tấm gương cho ta thấy thế giới như chính nó là, thì chính nó cũng cho ta thấy bộ mặt thật của chính ta. Con đường đi tìm Đạo chính là tấm vải lau. Hãy dùng nó.

 

Ta phải tìm kiếm thực tại ở nơi nào khác? Nó rất đơn giản. Nếu ta hỏi miệng mình có vị gì, thì chỉ có thể trả lời: nó không ngọt mà cũng không đắng, không chua mà cũng không chát, nó là cái gì còn lại sau khi tất cả các vị này không có. Tương tự như thế, khi tất cả mọi khác biệt và phản ứng không còn, cái còn lại là thực tại, đơn giản và chắc chắn.

 

Bằng cách vượt ra ngoài cái tâm hữu hạn, phân chia và gây đối nghịch. Bằng sự chấm dứt tiến trình tâm lý như chúng ta biết. Khi tiến trình này chấm dứt, Đạo Tâm khởi sinh.

 

Đạo Tâm lúc nào cũng ở trong ta, chỉ có điều ta bị ràng buộc vào đủ mọi thứ thuộc về thân xác. Tất cả những nhận dạng về chính mình như thế đều sai lạc. Chính vì chúng mà ta cho rằng ta là những gì không phải là ta. Tất cả mọi định nghĩa chỉ áp dụng cho thân xác và những thể hiện của nó. Một khi nỗi ám ảnh thân xác không còn nữa, ta sẽ trở lại trạng thái tự nhiên mà chẳng cần cố gắng.

 

Những gì mà ta phải cố gắng để đạt được cũng sẽ kèm theo một chiều hướng đối lập. Chỉ những thứ không cần phải cố gắng mới có thể tự trọn vẹn với chính nó.

 

Chết là sự thay đổi trong tiến trình sống của một thân xác riêng biệt nào đó. Sự hòa hợp chấm dứt và sự tan rã xảy ra. Hàng triệu hình tướng đều là sự biểu hiện của ý thức. Chỉ có hàng triệu hình tướng được tạo ra và bị hủy diệt, còn bản chất vũ trụ thì bất sinh và bất tử. Chẳng có ai chết vì chẳng có ai đã được sinh ra.

 

Thân xác này chỉ là một sự chuyển đổi trạng thái của dòng vật chất và năng lượng trong vũ trụ. Ta không phải là thân xác này, mà là sự sống trong nó. Khi chết thì chỉ có thân xác chết. Sự sống không chết, thực tại không chết. Cái gì được sinh ra thì phải chết đi. Chỉ cái bất sinh thì mới bất tử.

 

Nếu không có một hình tướng thân xác thì không thể có bất cứ nhận thức nào. Khi thân xác chết, các giác quan không hoạt động nữa, do đó không có nhận thức hay cái biết nào về thế giới xảy ra đối với thực thể đó. Chỉ khi nào các giác quan hoạt động thì mới có nhận thức và cái biết về thế giới.

 

Ý thức tạo ra ý nghĩa cho mọi thứ. Thực tại nằm ngoài ý thức nên thực tại không chứa đựng ý nghĩa nào cả. Ý thức thuộc về con người, và chính những ý nghĩa mà chúng ta đang ảo tưởng ra đã tạo nên Bản Ngã. Vì vậy, nếu ta không thể tìm được ý nghĩa cho mỗi hành động của mình, ta sẽ mất đi động lực đến từ ý thức. Ta cần phải vượt qua Bản Ngã (ảo tưởng cá nhân) đó và tìm ra Chân Ngã (bản chất thật) của mình. Chân Ngã luôn là phần sâu kín nhất bên trong ta. Đó là trí tuệ, là sự an lạc chân thật.

 

Cái gì đạt được thì có thể lại bị mất. Chỉ khi nào ta nhận ra sự an lạc chân thật, sự an lạc mà ta chưa bao giờ mất thì sự an lạc đó sẽ ở với ta. Thay vì bỏ công tìm kiếm cái mà ta không có, hãy nhận ra cái mà ta chưa bao giờ mất, cái bất sinh và bất tử. Trạng thái bất di bất dịch đó, không hề bị ảnh hưởng bởi sinh và tử của một cái thân, hay của một cái tâm. Ta phải nhận ra trạng thái đó. Đau khổ và khoái lạc là chóp và chân của những con sóng trong biển an lạc. Sự viên mãn ở tận dưới sâu kia.

 

Kinh Dịch

 

Tinh hoa triết học phương Đông nằm gọn trong Kinh Dịch với cái nhìn bao quát về vũ trụ và vạn vật. Nhưng có những kẻ lấy 64 quẻ trong Kinh Dịch để đem vào bói toán nhằm khai thác đám người thiếu hiểu biết và mê tín, thỏa mãn ham muốn vật chất của chúng dựa vào hên xui may rủi.

 

Đa số những kẻ học Kinh Dịch chỉ quan tâm các quẻ hào nhằm phục vụ mục đích của mình, mà không chịu đào sâu cái bản chất triết học của nó. Kinh Dịch đưa ta vượt khỏi những mâu thuẫn và nhiễu loạn từ những sự đối nghịch, mà được minh họa với biểu tượng Thái Cực tạo thành từ hai con cá Âm và Dương. Thái Cực tượng trưng cho sự so sánh và phân chia của Thân Tâm đối với vạn vật. Vậy thì, Đạo Tâm là con đường trở về với nguồn gốc của vạn vật, là trở về với cái tâm tĩnh lặng không bị phân chia bởi thân xác, là cái tâm khởi nguyên thuộc về vũ trụ, cái tâm nhìn nhận mọi thứ một cách thấu suốt và tổng thể, có thể gọi nó là Vô Cực.

 

Mọi bài học đều đến từ việc giải quyết những mâu thuẫn. Cuối cùng thì chúng đều hướng đến làm sao để hài hoà và cân bằng với mọi thứ.

 

Những trải nghiệm đến từ thân xác không thể định nghĩa cho thực tại. Thực tại nằm ngoài những hiểu biết hữu hình và hạn hẹp của thân xác. Ta chỉ có thể nói về thực tại bằng cách thông qua những thứ không phải nó.

 

Thực tại là một trạng thái nguyên thủy, vô hình, vô tướng, vô thanh, vô vị, vô cùng, vô tận, không giới hạn, không thời gian, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không có bất kỳ sự phân biệt nào, ta có thể cảm giác được mà không thể xác định được, có thể hiểu biết được mà không thể nói ra được. Nó không có giới hạn nên ta không thể định danh nó, vì hễ dùng đến danh từ để chỉ định, tức là thứ được chỉ định đã bị hạn định, cho nên ta gượng dùng danh từ Đạo để tạm chỉ định. Trong Kinh Dịch phương Đông gọi đó là Vô Cực, người phương Tây gọi đó là Thượng Đế.

 

Thực tế, Thượng Đế chẳng ở đâu xa, mà đã ẩn ngụ trong tiềm thức và vô thức con người, đó chính là Đấng Sáng Tạo ở trong ta. Nhưng không phải là một thực thể quyền năng siêu nhiên huyền bí, không phải một loại hồn phách ma mị hư ảo, không phải một vị thánh hay ông thần có dáng dấp và tính cách. Thượng Đế hay Chúa Trời cũng chỉ là những cách gọi mang tính tượng trưng về cái hư không mà chúng ta không biết và không thể định nghĩa. Chúng ta mê đắm vào trí tưởng tượng và rơi vào cái bẫy mê tín cũng chỉ vì muốn lấp đầy cái khoảng trống tri thức của mình.

 

Thực tại là nguồn gốc của sự sáng tạo. Sự sáng tạo phải bắt nguồn từ một nơi chốn trong vô thức, nơi đó không bị vướng bận bởi suy tư, nó là một khoảng trống tĩnh lặng của nội tâm. Thân xác luôn bị giới hạn bởi cách mà nó tiếp nhận mọi thứ. Thân xác làm biến tướng mọi thứ theo cách nó muốn. Bản chất của ý thức là biến tướng cái nguồn gốc, và khiến nó bị định hình theo nhiều chiều hướng khác nhau. Càng suy nghĩ thì càng xa rời với cái bản thể nguyên sơ. Mọi hình thái biến tướng được định hình bởi thân xác, đều dựa trên bản chất ẩn chứa sau nó.

 

Đi tận cùng nội tâm, ta sẽ thấy vũ trụ. Khi tâm trí tĩnh lặng ta kết nối được với cái bản thể cao hơn của mình, đó là người trợ giúp tinh thần và cho ta câu trả lời. Sự thật đến từ tiếng nói mà ta hầu như không thể nhận biết được từ chiều cao hơn của chính mình. Con người là vũ trụ thu nhỏ. Vì năng lượng các chiều cao luôn bao bọc lấy các chiều thấp. Năng lượng các chiều cao có trước các chiều thấp, hay là linh hồn có trước và cơ thể vật lý tồn tại qua mỗi kiếp người.

 

Vì sao nói: “Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa”, “Con người là hiện thân của Chúa”, “Chúa luôn ở bên bạn”, “Phật tại tâm”? Vì dạng năng lượng gốc đã tạo ra con người cũng tạo ra vũ trụ vẫn luôn tồn tại ở chiều cao nhất của con người và của vũ trụ, năng lượng gốc này kết nối với các chiều khác cho đến tận chiều vật lý. Năng lượng gốc luôn ở đó, trong từng nguyên tử nhỏ li ti, trong con người và trong vũ trụ.

 

Tĩnh lặng là bản chất của nguồn cội, năng động là bản chất của bề mặt. Vô Cực là nguồn gốc của vạn vật, là hướng về Đạo Tâm. Thái Cực là điểm chung của vạn vật, là sự phản ánh của Thân Tâm. Vạn vật luôn thay đổi trạng thái và vận động liên tục theo hai chiều hướng đối lập. Tận cùng của hai chiều hướng đối lập đó là hai giới hạn, hai cực điểm (hai điểm cùng cực): Cực Âm (-) và Cực Dương (+).

 

Hầu hết các sự vật và sự việc được nhìn nhận như là nằm trong một dải nối giữa hai cực đối lập nhau. Chúng ta nhìn cuộc đời bằng khối óc phân chia, ta thấy bất kỳ cái gì cũng có hai chiều, hai mặt, hai Thái Cực: thiện ác, đúng sai, hay dở, trên dưới, trước sau, trong ngoài, phải trái, vinh nhục, giàu nghèo, sang hèn, mạnh yếu, già trẻ, ngày đêm, sáng tối, nóng lạnh, nam nữ, tiến thoái, tĩnh động, cứng mềm, vui buồn, yêu ghét, sướng khổ,… Một khi có sự so sánh thì sẽ có sự phân chia. Nếu chỉ dùng lý trí mà suy luận và nhận xét, thì ta thấy vạn vật thiên biến vạn hóa, không một phút giây nào ngừng nghỉ.

 

Khi đi đến tận cùng của một cực, ta lại thấy cực kia, hay nói cách khác ta tìm thấy phân cực này bên trong phân cực khác, giống như biểu tượng Thái Cực. Âm và Dương không sinh ra một cách đơn độc, sinh Âm tất cũng sẽ sinh Dương, sinh Dương tất cũng sẽ sinh Âm. Khi một ý niệm nảy sinh thì một ý niệm đối lập cũng nảy sinh cùng nó. Có yêu tất có ghét, có vui tất có buồn. Một mặt hiện thì mặt kia ẩn, mặt ẩn tuy không thấy nhưng chắc chắn tồn tại, gặp thuận lợi là đảo ngược. Ta chỉ nhìn thấy mặt ngửa mà không nhận ra mặt xấp. Có cái tốt là vì được so sánh với cái xấu, có cái đúng là vì được so sánh với cái sai.

 

Vạn vật dù biến hóa theo mọi hình thù, nhưng sự cấu thành nên chúng dù biểu hiện hay không biểu hiện luôn tồn tại hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập nhau nhưng không tách biệt không gian và thời gian nên thoát khỏi mặt này thì tức là thoát khỏi mặt kia, chúng tăng giảm cùng nhau tạo nên sự cân bằng trong vũ trụ. Hình thái rõ nhất của hai mặt đối lập là hai điểm tận cùng của sự dao động giữa chúng. Ở trung điểm là vị trí không dao động, đó là bản chất tĩnh lặng của vũ trụ, là căn nguyên của vạn vật. Tĩnh lặng là một dạng năng lượng đặc biệt, và nó là nguồn gốc của mọi loại năng lượng khác. Mỗi sự dao động sẽ là một biểu hiện, nhờ đó mà vạn vật được nhận biết, chúng lên tiếng chứ không im lặng như vũ trụ.

 

Khổ sở là dao động, bình an là tĩnh lặng. Khổ sở chẳng phải đớn đau, cũng chẳng phải phấn khích, mà là sự dao động không ngừng giữa cả hai. Sự phấn khích đưa ta lên cao bao nhiêu thì khiến ta ngã đau bấy nhiêu. Đớn đau đến từ sự sụp đổ của phấn khích. Ta theo đuổi phấn khích, nhưng cũng lại chạy trốn mặt trái của nó là đớn đau. Hai mặt là hai nhưng chúng sinh ra và hiện hữu cùng nhau, mặt này được định nghĩa từ mặt kia, vì vậy bản chất là một. Ta theo đuổi và chạy trốn cùng một thứ để rồi rơi vào cái vòng luẩn quẩn.

 

Hai mặt đối lập nhau nhưng không triệt tiêu nhau mà hấp dẫn nhau. Thân xác được cấu tạo từ vật chất. Sắc dục là lực hấp dẫn của vật chất mang tính Dương và vật chất mang tính Âm. Ý thức là một dạng vật chất đặc biệt sinh ra từ thân xác và biểu hiện cho lực hấp dẫn đó. Ý thức có các trạng thái dao động nhưng thông qua tri giác thì không có hình hài.

 

Người ít hơn thì muốn lấy, người nhiều hơn thì muốn ban phát. Người lấy trở thành xấu, người cho trở thành tốt. Con người luôn dao động giữa xấu và tốt. Từ xấu trở thành tốt, rồi lại từ tốt trở thành xấu. Chẳng ai xấu hoàn toàn, và chẳng ai tốt hoàn toàn. Con người biết ích kỷ thì cũng biết hy sinh, nên sự ghét và yêu dành cho cùng một con người. Lòng thương là mặt đối lập của căm ghét. Dù là căm ghét hay việc rủ lòng thương xót với một ai cũng khiến ta trở nên đau khổ. Từ bỏ căm ghét thì cũng là từ bỏ lòng thương.

 

Thứ gì hữu hạn sẽ dẫn đến sự tranh giành, có người được thì có kẻ mất. Ta vướng mắc vào sự được mất nên chẳng thể an lòng. Khi hai chiều hướng đối lập xuất hiện, lòng tham mới dần bộc lộ. Lòng tham là bản chất con người, nó là sự dao động trong tâm con người. Lòng tham chẳng phải chiều hướng nào cả, nó là sự dao động giữa cả hai. Được lòng ta mất lòng người, được lòng người mất lòng ta. Chọn chiều hướng nào thì cũng là mâu thuẫn giữa được và mất. Vậy phải làm sao? Có kẻ làm mọi cách vẫn không có được thứ mình muốn, có kẻ chẳng dày công mà lại đạt thành quả. Vì vậy, ta nhận ra mọi sự được mất không đến từ tự thân mà đến từ dòng chảy tự nhiên của cái tổng thể. Thay vì vướng mắc vào hai bên bờ thì ta cứ xuôi theo dòng chảy đó. Khi đã chấp nhận sự tồn tại của dòng chảy, người ta mới chủ động nghiên cứu về nó và tìm cách xem được thời vận. Nếu muốn kết nối với dòng chảy tự nhiên thì ta phải trở nên tự nhiên như nó.

 

Vạn vật hiện hữu đều do hai yếu tố: Đạo và Đức. Đạo là Vô Cực, là vũ trụ, là nguồn gốc của vạn vật, là trung tâm cuộc sống, nó không có tính cách riêng nên nằm ngoài thiện ác, đúng sai, hay dở,… nghĩa là tuyệt đối. Đức là Thái Cực, là nói về vạn vật, là chỉ sự phân chia, là thiện ác, đúng sai, hay dở,… nghĩa là tương đối. Muốn cái hay mà không muốn cái dở, muốn trật tự mà không muốn hỗn loạn, tức là không biết định luật của vạn vật, vạn vật luôn có Âm và có Dương. Vạn vật luôn dao động giữa hai Thái Cực, luôn biến thiên, luôn là trạng thái động, cái động không cố định, nó là tương đối. Nhưng bản chất của vũ trụ, của Vô Cực là tuyệt đối, vì nó luôn trống rỗng, sự trống rỗng không thể bị phân chia, nó là trạng thái tĩnh, cái tĩnh đem lại bình an trong nội tâm. Trạng thái đó khiến ta giống như một kẻ ngu dốt, vì ta đã tách biệt mình khỏi biết bao tri thức đã dày công học hỏi để trở về với bản chất nguyên thủy, trở về với vũ trụ ở sẵn bên trong ta.

 

Nhân Quả, Luân Hồi, Nghiệp

 

Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.

 

Vũ trụ tồn tại không bởi một ý chí nào, và mọi vật dù nhỏ đến đâu đều xuất hiện hay biến mất không vì bất cứ lý do gì. Tất cả mọi chuyển động hữu hình và có thể nhận thức được đều tự xảy ra mà không có một lý do đặc biệt nào. Điều này có nghĩa là mọi sự vận hành, sự quay tròn, sự rung chuyển, sự rầm rì đều không có một mục đích. Dĩ nhiên, mọi thứ đều tương quan liên kết. Do đó, mọi vật đều có vô số nguyên nhân. Toàn thể vũ trụ góp phần cho cái nhỏ nhặt nhất. Xu hướng của vũ trụ thiên về sự quân bình, hài hòa và hợp nhất. Bất cứ lúc nào, bất cứ gì xảy ra bây giờ, là đều cho sự tốt lành nhất.

 

Tính nhiều và đa dạng chỉ tồn tại ở trong tâm. Quá khứ và tương lai chỉ tồn tại ở trong tâm. Thời gian ở trong tâm, không gian ở trong tâm. Trong thực tại tất cả ở đây và bây giờ, tất cả là một. Chính ảo tưởng về thời gian tạo ra tương quan về Nhân Quả.

 

Không gian và thời gian chỉ là những hình thức của tri giác cảm tính. Bất cứ cái gì có sự khởi đầu đều có sự kết thúc. Cái hư giả thì luôn thay đổi, nhưng cái thật thì bất biến. Cái thật không bị giới hạn bởi các khái niệm thời gian, không bắt đầu nên không có kết thúc.

 

Trong thực tế cuộc sống, chúng ta bao giờ cũng khởi sinh một hành động với ý định mong chờ một kết quả. Nhân Quả chỉ là sự thể hiện của một quy luật đem lại lợi ích, một lối suy nghĩ mà ta nêu câu hỏi và áp đặt câu trả lời. Mọi tính hợp lý và những sự diễn giải đều là sản phẩm của Thân Tâm. Chừng nào tâm còn hoạt động thì Nhân Quả vẫn có hiệu lực. Ngay chính sự thôi thúc để đạt thành cũng là một sự thể hiện của toàn thể vũ trụ. Nó đơn thuần cho thấy rằng nguồn năng lượng tiềm tàng đã dâng đến một điểm nhất định nào đó.

 

Không có ý nghĩa nào khác trong thế giới này ngoài ý nghĩa mà chúng ta mang đến cho nó. Con người thì lý tính còn vũ trụ thì phi lý. Không có người tốt hay người xấu, điều gì xảy ra là xảy ra, và nó cũng có thể xảy ra với một người tốt cũng như với một người xấu. Tại bất cứ thời điểm nào, bất cứ điều gì cũng có thể xảy đến với bất cứ ai.

 

Luân Hồi hàm ý một mớ ký ức và hy vọng của ý thức, tưởng tượng chính nó tồn tại mãi mãi trong dòng thời gian mà tự nó tạo ra. Ý thức tạo ra quá khứ và tương lai để dung chứa sự trường tồn hư giả của nó. Khi ta không còn tưởng tượng thì vòng lặp của sinh và tử không còn xảy ra đối với ta.

 

Vạn vật xung quanh ta đã, đang và sẽ là năng lượng. Việc con người không nhìn, sờ, ngửi, cảm thấy nhiều thứ như sóng điện thoại, tia X, hào quang, linh hồn,… cũng đơn giản thôi vì đó là các dạng năng lượng nằm ngoài vùng giác quan thông thường của cơ thể vật lý. Năng lượng vật chất là những năng lượng thấy được, năng lượng phi vật chất là những năng lượng không thấy được. Con người là năng lượng có ý thức, ví như “không khí” tồn tại bên trong “bong bóng thân xác”. Khi thân xác chết đi, ví như “bong bóng vỡ tan”, “không khí” (ý thức) bên trong sẽ trở về hòa hợp với “tổng thể” (vũ trụ, hay cõi vô thức). Nếu “không khí” bên trong ở sắc thái nào thì khi trở về với “tổng thể” cũng mang theo năng lượng như vậy.

 

Những thứ đã sinh ra sẽ không tự nó mất đi. Nếu không được hóa giải nó sẽ luôn tồn tại ở đó. Năng lượng của ý thức cũng vậy, nó không có hình tướng nhưng sẽ luôn tồn tại. Khi thân xác chuyển hóa từ dạng sống sang dạng chết, qua thời gian nó sẽ tan rã và hòa hợp vào tự nhiên. Vậy thì, những năng lượng ý thức cũng vậy: những khao khát từ ký ức về thiếu thốn, những oán thán từ ký ức về đau khổ, những hận thù từ ký ức về xung đột,… những năng lượng đó sẽ không mất đi mà sẽ hòa hợp vào tự nhiên. Để rồi đến một lúc nào đó, khi đủ điều kiện nó sẽ tái sinh hoặc thâm nhập vào một thân xác mới, đó là vòng Luân Hồi do ý thức. Sự đồng hóa chính mình với thân xác luôn luôn tạo ra những tham ái mới và không có cách nào chấm dứt, trừ khi cái cơ cấu của sự ràng buộc này được thấy một cách rõ ràng.

 

Năng lượng của ý thức nếu không được chuyển hóa hoặc phân tán sẽ vẫn còn đó, và lưu giữ lại trong hình hài của những ký ức cũ, khiến cho thân xác mới vẫn nhớ được ký ức từ kiếp trước. Linh Hồn chỉ là cách gọi của những mảnh ý thức chưa được thỏa mãn nên không thể siêu thoát. Vòng Luân Hồi này cứ tiếp tục cho đến khi con người có thể hóa giải hết những năng lượng đó. Ta không nói rằng cùng một con người tái sinh. Con người đó chết đi và chết đi vĩnh viễn. Nhưng ký ức của nó vẫn còn cùng với những tham ái và sợ hãi cung cấp năng lượng cho một con người mới.

 

Chân Ngã (bản thể ban đầu) thì luôn thuần khiết, còn ý thức được bồi đắp từ khi chào đời và chỉ gói gọn trong kiếp sống của thân xác. Có những chiều không gian vô hình tướng và số lượng ý thức tồn tại trong đó vượt xa số lượng thân xác hữu hình. Bởi vì, thân xác có tuổi thọ nên sẽ chết đi và tan rã vào đất, còn năng lượng ý thức khi không còn nơi trú ngụ sẽ hòa vào cõi vô thức hoặc thâm nhập vào một thân xác mới.

 

Ngoài ra, ý thức có thể phân tách thành nhiều đoạn nếu nó có nhiều trải nghiệm. Ta thấy rằng mọi ý thức của bất kỳ thân xác nào đều có thể được chia sẻ với một thân xác khác ở bất kỳ thời điểm nào. Luân Hồi chỉ là sự chia sẻ những mảnh ý thức giữa các thân xác.

 

Những mảnh ý thức trôi dạt chứa đựng kiến thức và tính cách của một thân xác khác. Chúng được học tập trong thời gian của kiếp sống đó. Khi ý thức được hòa trộn vào một thân xác mới, nó sẽ được kế thừa những kiến thức và tính cách đó, kèm theo cả những ký ức của kiếp sống đó. Những ý thức đó vẫn đang tiềm ẩn đâu đó trong cõi vô thức mà chưa hiện diện với ta, hoặc chưa hòa trộn vào ta để có thể nhận thấy.

 

Những mảnh ý thức trôi dạt có thể được dẫn dắt không? Chúng được dẫn dắt bởi điều gì? Liệu có thể là một lời nói, lời cầu nguyện hay một loại âm thanh nào đó không? Những ý thức đó không có giác quan nên không thể lắng nghe, không có thân xác nên không biết suy nghĩ. Chúng chỉ là những đoạn phim cuộc đời không có một kết thúc trọn vẹn cho chính nó để có thể lãng quên, nên nó vẫn tồn tại và trôi nổi trong dòng chảy vô hình tướng.

 

Linh Hồn người chết vẫn thấy người sống? Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thân xác đều không sử dụng được nữa. Nhưng Linh Hồn (mảnh ý thức trôi dạt) vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng từ những rung động tư tưởng chạm đến nó. Họ biết rất rõ tư tưởng, tình cảm mặc dù họ không còn nghe hay nhìn thấy như chúng ta. Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả. Tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm nhận được tình thương của ta. Họ biết các đau buồn, cảm giác của ta, vì họ đọc được tư tưởng.

 

Đôi khi ta cảm thấy những nỗi đau không rõ nguyên nhân, nó đến từ một mảnh ý thức nào đó. Nỗi đau từ nó khiến ta phải trải qua những gì nó đã từng chịu đựng. Nghiệp chỉ là cái kho tàng trữ những năng lượng chưa được giải phóng, những tham ái chưa được thỏa mãn. Vô tham ái tự xuất hiện ngay khi tham ái được nhận ra là hư giả đến từ thân xác. Cái gì được ta thấy là hư giả thì tự nó tan biến. Bản chất của ảo tưởng là tự nó biến mất khi được tìm hiểu, chỉ thế thôi.

 

Mối quan hệ giữa tất cả chúng ta giống như một cái cây lớn với hàng ngàn chiếc lá trên đó. Những chiếc lá trên cùng một cành cây với ta sẽ đặc biệt gần gũi. Chúng ta thậm chí có thể cùng chia sẻ những trải nghiệm về ý thức với nhau. Có thể có ba, bốn hoặc năm lá trên cành cây của ta. Ta cũng có mối liên quan mật thiết với những chiếc lá ở cành cây bên cạnh. Chúng ta đều thuộc cùng một cành to. Họ ở gần với ta, nhưng không gần với những chiếc lá khác trên cành cây của ta. Tương tự như vậy, khi mở rộng ra xa hơn dọc theo thân cây, ta còn liên quan đến những chiếc lá hay những ý thức khác, nhưng không chặt chẽ như những người ở gần ta. Chúng ta đều là những bộ phận trên cùng một thân cây. Chúng ta có thể chia sẻ những trải nghiệm với nhau. Chúng ta biết nhau, nhưng những người trên cùng một cành cây với ta là gần gũi nhất.

 

Có nhiều cây khác trong khu rừng xinh đẹp này. Mỗi cây được kết nối với những cây khác thông qua hệ thống rễ nằm sâu dưới lòng đất. Vì vậy, dù có thể có một chiếc lá nằm trên một thân cây phía xa có vẻ rất khác biệt và xa cách đối với ta, ta vẫn có sự kết nối với chiếc lá đó. Ta có thể kết nối với tất cả những chiếc lá, nhưng ta được kết nối chặt chẽ nhất với những chiếc lá ở trên cây của ta. Và càng kết nối mật thiết hơn với những người trên cùng một nhánh. Và gần như là một với những chiếc lá trên cùng một cành với mình.

 

Duyên

 

Dòng chảy tự nhiên bao trùm và cũng tồn tại vô hình bên trong nội tại vạn vật, từ đó chi phối và kéo theo tất cả. Nhưng đa số chúng ta vẫn chấp nhặt vào tiểu tiết, và chỉ dám nghĩ trong thế giới quan của mình. Vậy nên, tâm trí không thể mở mang để nhìn thấy cái bao quát và lớn lao hơn. Mỗi sự xuất hiện và biến mất, đến và đi đều là vì dòng chảy đó mà không bởi một nguyên nhân cụ thể nào. Những gì xảy ra với mỗi người là kết quả của một chuỗi sự kiện phức tạp, vượt xa tầm kiểm soát của cá nhân.

 

Duyên là nói về những gì thuộc về dòng chảy tự nhiên và vượt ra ngoài thân xác. Mọi sự vật có mặt là do duyên sinh khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó. Mọi đau khổ và thất vọng đến từ việc muốn chống lại sự vận động của tự nhiên.

 

Dấu hiệu của dòng chảy tự nhiên biểu hiện thông qua một sự thúc đẩy, đó là những mong muốn sâu thẳm mà ta lắng nghe được từ nội tâm. Làm những việc trái với ý muốn sẽ chẳng đạt kết quả gì, vì rào cản lớn nhất do chính mình tạo ra.

 

Cơ hội là thứ xảy ra bên ngoài. Những suy tính không dẫn đến cơ hội, vì cơ hội là thứ đến tự nhiên, ta chỉ có thể suy tính với cơ hội. Luôn có rất nhiều cơ hội nhưng nếu nội lực không đáp ứng sẽ không thể nắm bắt. Chúng ta vẫn chỉ trích nhau vì đã bỏ lỡ một kết quả trong tương lai. Nhưng mọi quyết định tại bất cứ hoàn cảnh nào đều dựa trên sự cân nhắc phù hợp nhất từ khả năng giới hạn của cá nhân đó và điều kiện ngoại cảnh. Những bước đi vội vã khiến mọi thứ trở nên gượng ép và quá sức. Động lực cũng chỉ là sự phản ánh của tiềm lực và thuận lợi. Khi sự tích lũy chưa đủ và rào cản quá lớn, không ai có thể bước tiếp.

 

Chúng ta đều là những hạt cát trong sa mạc cuộc đời. Gió thổi đến đâu, chúng ta sẽ đến đó. Việc phán xét nhau giống như việc phán xét một hạt cát vì nó không thể bay cao hơn những hạt cát khác.

 

Hai cõi Âm, Dương

 

Hai cõi Âm, Dương chỉ là cách gọi đối với thế giới vô hình và hữu hình, hay có thể nói là vô thức và hữu thức. Ta du hành sang cõi âm thế nào? Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi Âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng trực giác để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi Âm vì các giác quan của thân xác không thể đáp ứng với sự rung động của cõi Âm. Quan niệm về không gian cũng khác, vì đây là cõi tư tưởng nên không có khoảng cách, nghĩ đến đâu là ta đến đó, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp ý thức của người đó ngay.

 

Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển thông qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học và thử thách mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát (cách gọi của các bậc giác ngộ) trước khi đắc quả vị (vượt qua nhiều cấp độ tu tập) và đạt đến Niết Bàn (trạng thái tâm linh cao nhất) đều phải trải qua kiếp trần. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần.

 

(Ghi chú: Niết Bàn là trạng thái tận diệt được tham ái, sân hận và si mê để đạt đến trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối.)

 

Có thể nói rằng khi ngủ, ta qua cõi Âm. Ta chỉ có thể giao tiếp với cõi Âm thông qua trực giác. Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác, nó cần phục hồi sức khoẻ nên nằm yên. Nhưng trực giác lại khác, nó vẫn hoạt động. Vì bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn cảm nhận được mọi việc xảy ra xung quanh.

 

Giấc mơ

 

Ý thức không tĩnh, nó là một trạng thái liên tục, giống như một bánh xe chuyển động. Trung tâm của bánh xe, tức trục xe, thì không chuyển động. Khi ta di chuyển từ trục xe ra ngoại vi thì chuyển động tăng dần. Tương tự như thế, sự khởi đầu của ý thức cũng giống như trung tâm của bánh xe, điểm không thay đổi, bất biến. Từ ngày ta được sinh ra cho đến khi chết đi, trung tâm đó luôn tồn tại. Khi ta hội nhập vào thế giới, sự chuyển động gia tăng. Quan sát sự chuyển động của ý thức, cái quan sát sự chuyển động thì hầu như bất động.

 

Muốn quan sát được ý thức thì kẻ quan sát phải đứng ra ngoài khỏi cái được quan sát. Khi ta tìm thấy sự bất động, tìm thấy trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối của nội tâm, đó là dấu hiệu mà ta đã tách ra khỏi ý thức và trở về với cõi vô thức. Trạng thái duy nhất mà ta thực sự quan sát được ý thức của chính mình là trong những giấc mơ, khi thân xác đang say ngủ.

 

Tìm đến vô thức là tìm đến sự tĩnh lặng. Vì vậy, một giấc ngủ là khoảng tĩnh lặng để ta tạm thời thoát khỏi cái thân xác đầy hỗn loạn. Trong giấc ngủ không mơ không tồn tại không gian và không cảm nhận dài ngắn của thời gian, ta trong sự tĩnh lặng tuyệt đối của vô thức, trạng thái đó của tất cả chúng ta đều giống nhau. Nhưng mỗi giấc mơ thì mang tính cá nhân nên nó là tương đối, nó là ảo ảnh đến từ ý thức.

 

Cảm nhận của thân xác có được nhờ giác quan, còn cảm nhận của nội tâm có được nhờ trực giác. Ý thức thuộc về thân xác, còn trực giác thuộc về vô thức. Trực giác chỉ phản ứng trong vô thức, thường trong là trong giấc ngủ sâu.

 

Giấc ngủ là con đường đến với vô thức theo cách tự nhiên nhất. Giấc ngủ là giai đoạn bảo trì của thân xác, khi những định kiến và ảo tưởng của ý thức không còn hiện diện. Trong giấc ngủ sâu, ta mất đi sự kết nối với thân xác và chìm vào trong vô thức. Lúc này, bản thể vô thức trở nên nhạy cảm nhất và nhận ra những năng lượng tư tưởng đang ẩn khuất, chúng được biểu hiện bằng giấc mơ.

 

Trong cái kho tâm trí, những ký ức không được sắp đặt mà tồn tại một cách ngẫu nhiên. Trong giấc mơ, chúng bị trộn lẫn vào nhau tạo ra những ảo ảnh biến dạng. Có lẽ, những gì trực giác cảm nhận được trong giấc mơ chỉ là những ham muốn và khao khát đến từ ý thức của chính ta, nhưng nó vốn bị phán xét nên được che đậy một cách vô thức.

 

Khi một trải nghiệm được cất giấu vào trong vô thức, ta sẽ quên nó. Những ký ức đã lãng quên đó vẫn âm thầm ảnh hưởng đến ta từ trong vô thức. Nếu ta có thể mang những ký ức đó từ trong bóng tối vô thức ra ngoài ánh sáng ý thức, nó mất đi sự ảnh hưởng vì đã tách ra khỏi bản thể của ta trong vô thức.

 

Có những nỗi sợ vô hình mà ý thức không thể tìm thấy khởi nguồn, nó đến từ một dòng thời gian đã lãng quên và ẩn danh trong vô thức. Đôi khi, từ trong vô thức ta nhìn thấy những ký ức kỳ lạ mà ta chưa từng bắt gặp, đó là những năng lượng ý thức trôi dạt mà chỉ bằng trực giác mới có thể nhìn thấy.

 

Ta tìm cách đi vào trong vô thức là để phát hiện những kẻ ẩn danh. Làm sao để nhận ra chúng khi chưa từng trải nghiệm hoặc không được người khác chỉ điểm? Làm sao để hữu thức hóa vô thức? Vô thức không hoạt động giống như ý thức. Vô thức thiếu đi những cánh tay vận hành mà chỉ ý thức mới có. Vì vậy, ta sẽ không làm chủ vô thức, ta chỉ lắng nghe vô thức.

 

Có con đường nào khác ngoài giấc mơ để có thể đi vào vô thức? Đa số những bài hướng dẫn Thiền thường tập trung vào kỹ thuật, nhưng không giải thích nguyên lý sâu xa của nó. Nếu như ta tìm thấy Chân Ngã, nếu như ta hiểu bản chất của ta là tĩnh lặng thì lúc nào cũng là Thiền.

 

Bản thể của ta là vô thức, bản thể đó được thân xác bao bọc nhưng không kết nối với thân xác, nên không thể tự ý thức được chính nó. Nó chỉ phản ứng bằng những rung động khiến cho thân xác phát hiện một tín hiệu, và ta chỉ biết rằng tín hiệu đó đến từ trực giác. Có những cái biết chỉ đơn giản là biết mà không thể giải thích. Cách duy nhất để những khả năng trong vô thức hiện diện là khuấy động nó.

 

Khả năng luôn có sẵn, nhưng không thể tự bộc phát mà phải đặt vào một thách thức. Thách thức là chất xúc tác giúp khai phá khả năng. Nếu ta không có cơ hội trải nghiệm thách thức, ta phải học khả năng đó bằng cách quan sát và bắt chước người khác. Nhưng ta chỉ có thể tiếp thu những thứ tương đồng với tính cách bản thân, nên phải đi tìm cho mình một hình mẫu lý tưởng. Ta tìm một kẻ giống ta để tự quan sát chính ta.

 

Liệu có khả năng nào được tạo ra mà chỉ cần tập trung tư tưởng? Tập trung tư tưởng là hoạt động của ý thức, muốn chạm đến vô thức phải có khả năng buông bỏ tư tưởng. Mọi khả năng bắt nguồn từ trong vô thức trước rồi mới hiện hữu thành ý tưởng. Người ta vượt ra khỏi hữu thức để tìm đến vô thức vì muốn mở ra nhiều khả năng hơn. Giống như việc lấy ra những ý tưởng trong một chiếc hộp tối, và mang ra ánh sáng để có thể nhận thấy được nó, đó là sự sáng tạo.

 

Khi ý thức không còn sự để tâm, ta lại thu hoạch được điều gì đó trong vô thức. Càng tập trung tư tưởng ta càng bị trói buộc vào những định kiến sẵn có, và loay hoay trong những lối mòn. Ta đã quá quen và lệ thuộc vào ý thức, ta phải làm ngược lại những gì vẫn làm. Đi tìm vô thức là đi tìm sự quên. Ta đi tìm bằng cách không đi tìm. Cái không biết sẽ chẳng lộ diện trước một tâm trí bị vây chặt bởi ham muốn và khao khát. Cái muôn vàn bị núp bóng và thực tại trở nên vô hình, vì một đôi mắt sáng chỉ khiến ta đui mù qua những gì nó nhìn thấy.

 

Trên con đường tìm kiếm chân lý, ta phát hiện ra những năng lực ẩn tàng và phi thường. Nó là thứ đi kèm khi ta đào sâu khai thác bản chất của chính mình, nhưng ngay từ đầu nó đã vốn không phải là mục đích. Bản Ngã là rào cản ngăn ta tiếp cận với chân lý. Nó tạo ra những hạn chế về tư duy, những định kiến, u mê, lòng tham và nỗi sợ hãi. Vì vậy, những kẻ bị cuốn theo dục vọng và vật chất, họ mãi mãi chẳng thể đạt được những điều vi diệu vượt ra khỏi những giới hạn của ý thức.

 

Giấc mơ của thân xác được trải nghiệm trong khi ngủ. Nhưng trạng thái thức cũng chỉ là một hình thái khác của giấc mơ, vì nó chỉ là những sự phóng chiếu trong giới hạn của ý thức, nó là hư giả, nó không phải cái thật. Có thể nói, trí tưởng tượng là những giấc mơ trong khi thức. Ta không cần phải đưa giấc mơ đến một kết thúc nhất định, hoặc làm cho nó ý nghĩa, cao thượng, vui thú, hay đẹp đẽ, tất cả những gì cần là nhận ra ta đang nằm mơ, ta cần trở nên Tỉnh Thức.

Chia sẻ:
Facebook
Bài viết liên quan

Những trường phái nghệ thuật, với tính độc đáo và sự đa dạng, đã tạo nên những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và di sản nghệ thuật. Bài viết này sẽ đưa bạn vào một hành trình khám phá qua các trường phái nghệ thuật đa dạng và...

Có biết bao nhiêu phong cách thiết kế và chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những tác phẩm nghệ thuật và công trình độc đáo. Hãy cùng khám phá những phong cách thiết kế đa dạng và đặc trưng trong bài viết này.   Phong cách...

Bất kỳ một tổ chức nào không thể tồn tại mà không có một nhà lãnh đạo. Nhưng chẳng ai có thể lãnh đạo một mình. Anh ta không thể tự quản lý ngân sách, tự thi hành luật và tự điều phối những dự án. Anh ta cần nắm...

Suy nghĩ là một hoạt động. Hoạt động suy nghĩ sẽ hình thành ý nghĩ. Quá trình suy nghĩ và tưởng tượng sẽ hình thành ý tưởng. Chúng ta định nghĩa sự sáng tạo là quá trình tạo ra ý tưởng mới. Vậy thì ý tưởng mới đến từ đâu?...

NỔI BẬT
Theo dõi chúng tôi trên MXH:
Liên hệ:
contact.hbth@gmail.com
© 2023 hatbuitamhon. All rights reserved.
Scroll to Top