Một phóng viên đặt câu hỏi cho những người đi ngang qua: “Điều gì đáng sợ nhất trên đời?”. Có người nói chiến tranh, người khác nói sự nghèo đói, bệnh tật, sự phản bội,… Khi thấy một nhà sư, phóng viên liền đưa câu hỏi này cho ông.
Thay vì trả lời, nhà sư lại hỏi: “Anh là ai?”
Phóng viên: “John Smith”
Nhà sư: “Đó là tên của anh, nhưng anh là ai?”
Phóng viên: “Tôi là một phóng viên”
Nhà sư: “Đó là công việc của anh, nhưng anh là ai?”
Phóng viên: “Tôi là một con người”
Nhà sư: “Đó là giống loài của anh, nhưng anh là ai?”
Người phóng viên bối rối. Nhà sư lại nói với anh ta: “Không biết mình là ai, đây chính là điều đáng sợ nhất trên đời”.
Câu chuyện dẫn đến một câu hỏi dành cho mỗi chúng ta: “Tôi là ai?”.
Đức Phật nhận ra rằng cái mọi người thường gọi là “tôi”, chỉ là sự kết hợp của 5 Uẩn (5 thành phần).
5 Uẩn bao gồm:
– Sắc (Vật chất): Cơ thể vật lý và các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
– Thọ (Cảm giác): Cảm nhận khi tiếp xúc với thế giới.
– Tưởng (Tri giác): Suy nghĩ, ký ức.
– Hành (Hành vi): Mong muốn, cảm xúc thúc đẩy hành động.
– Thức (Nhận thức): Ý thức về sự tồn tại và môi trường xung quanh.
Bất cứ điều gì trong trải nghiệm của một người đều nằm trong 5 Uẩn. Khi các Uẩn tụ hợp lại, một người được sinh ra. Khi các Uẩn tan rã, một người chết đi. Và khi các Uẩn phân tán rồi tụ hợp lại theo một mô hình khác, một người đã tái sinh. Đó là sự hợp tan không ngừng tạo nên vòng luân hồi mà chúng ta vẫn tưởng tượng.
Mỗi sự tụ hợp đều sinh ra một “cái tôi bản ngã”. Chúng ta thường cho rằng, cái “tôi” là sự kết hợp của 5 Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức. Đức Phật nhận ra rằng, không cái nào trong số này có thể là “cái tôi thực sự”. Tại sao lại như vậy? Vì chúng ta không thể kiểm soát được 5 Uẩn đó.
Nếu tôi không thể kiểm soát được 5 Uẩn thì chúng KHÔNG PHẢI CỦA TÔI, chúng KHÔNG PHẢI LÀ TÔI.
Sắc – Ta không thể ngăn cơ thể già đi hay bệnh tật chỉ bằng ý chí.
Thọ – Ta không thể buộc mình lập tức bình tĩnh khi đang lo lắng.
Tưởng – Ta không thể lựa chọn suy nghĩ tiếp theo sẽ đến với mình.
Hành – Ta không thể lựa chọn mình sẽ mong muốn điều gì.
Thức – Ý thức không có tự tính riêng, nó là sự phản ánh của các Uẩn khác. Ý thức không phải là ta vì giới hạn nhận biết của nó vẫn là những suy nghĩ cá nhân, nó là sự phản ánh của “cái tôi bản ngã”.
Nếu không có sự nhận thức (ý thức), một suy nghĩ xảy ra khi hội tụ đủ các điều kiện, nhưng thiếu đi cảm nghiệm về sự tồn tại của suy nghĩ đó. Ngược lại, sự nhận thức cũng cần có suy nghĩ mới thực thi được, sự nhận thức cũng phụ thuộc vào suy nghĩ. Cả hai, suy nghĩ và sự nhận thức, đều là những hiện tượng đồng sinh, không thể tách rời khỏi mạng lưới nhân duyên. Chúng đơn thuần là sự hội tụ của các điều kiện để biểu hiện, không có cái nào tách biệt cả.
Thân xác con người vốn không hoàn toàn thuộc về chính nó. Môi trường sống chi phối con người, nó lệ thuộc vào không khí, nhiệt độ, thức ăn, nước uống,… để tồn tại. Sự tồn tại của con người luôn cần gắn liền với những điều kiện bên ngoài. Thân xác không độc lập, ngay cả những suy nghĩ cũng thế, vậy thì “cái tôi bản ngã” là một ảo tưởng.
5 Uẩn thay đổi theo các điều kiện và nguyên nhân bên ngoài chúng. Do đó, không Uẩn nào có thể là “cái tôi thực sự” của chúng ta. Sự chấp thủ vào 5 Uẩn, xem chúng như là “cái tôi” hoặc “của tôi” là nguồn gốc của mọi đau khổ. Vì 5 Uẩn đều Vô Thường, nên sự bám víu vào chúng chắc chắn sẽ dẫn đến thất vọng và đau khổ khi chúng thay đổi hoặc tan rã.
Nếu không phải là cơ thể, cảm giác, suy nghĩ, mong muốn và ý thức. Vậy thì, “cái tôi thực sự” phải là gì?
Ta không phải 5 Uẩn, mà là một sự thuần khiết vượt lên trên chúng. Giống như bầu trời, những đám mây (suy nghĩ, cảm xúc) đến rồi đi, nhưng bầu trời vẫn trong veo. Khi tức giận, ta không là cơn giận, mà chỉ đang trải nghiệm nó. Cơn giận sẽ tan biến, nhưng ta vẫn tồn tại.
Ta phải tìm kiếm chính mình ở nơi nào khác? Nó rất đơn giản. Nếu tự hỏi miệng mình có vị gì, thì chỉ có thể trả lời: nó không ngọt mà cũng không đắng, không chua mà cũng không chát, nó là cái gì còn lại sau khi tất cả các vị này không có. Tương tự như thế, khi tất cả mọi khác biệt và phản ứng không còn, cái còn lại là chính ta, đơn giản và chắc chắn.
Ta chỉ có thể nói về cái “tôi” bằng cách thông qua những thứ không phải nó. Muốn biết về cái thật thì phải phủ định cái không thật. Ta phủ định cái không là để trở về với cái ta là. Thay vì nhìn mọi thứ theo tưởng tượng, hãy biết cách nhìn chúng như chúng là.
“Nếu bạn muốn biết bạn thực sự là ai. Trước tiên hãy buông bỏ mọi thứ không phải bạn. Bạn không phải tên, không phải ký ức, không phải suy nghĩ. Khi bạn buông bỏ tất cả, chỉ còn lại trải nghiệm sống thuần khiết. Cảm nhận của bạn trong cuộc sống này là gì? Niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, hạnh phúc. Tất cả đều là những trải nghiệm thoáng qua. Nhưng nếu bạn có thể chứng kiến tất cả mà không dính mắc vào chúng. Bạn sẽ chạm đến sự tự do bên trong.”
– Sadhguru –
Tất cả mọi định nghĩa chỉ áp dụng cho 5 Uẩn và những biểu hiện của nó. Khi ngừng đồng nhất với 5 Uẩn, ta sẽ trở lại trạng thái tự nhiên mà không cần cố gắng.
Ta có thể nhận biết được cơ thể, cảm giác, suy nghĩ, mong muốn và ý thức. Nhưng tại sao ta không thể quan sát được chính mình? Cũng giống như mắt không thể nhìn thấy mắt, mũi không thể biết mùi của mũi, miệng không thể biết vị của miệng,… nhưng chúng lại giúp ta nhận ra biết bao nhiều điều. Bản chất của chính ta không phải là những cái mà nó nhận biết được.
Những gì mà có thể chỉ ra như này, như kia thì không thể nào là chính ta. Ta là cái không thể nhận thức được, hay tưởng tượng ra được. Vì chừng nào biết có nghĩa là sự mô tả theo những gì đã biết, qua nhận định và khái niệm, đều bị giới hạn bởi tâm trí. Biết mình không biết chính là cái biết thật. Sự khôn ngoan thực sự nằm ở việc nhận ra sự thiếu hiểu biết của chính mình.
“Bạn không thể dùng tâm trí để hiểu điều vượt ngoài tâm trí.”
– Krishnamurti –
Thật ra, chúng ta là cái “đại thể” trong đó tất cả tính cách con người xuất hiện và biến mất, còn tự thân cái “đại thể” thì phi nhân cách. Khi dứt khoát từ bỏ sự nhận diện sai lầm với 5 Uẩn, bản tính đích thực của chúng ta tự hiển hiện là vô hình tướng, vô thân, vô tâm.
Cho nên, Đức Phật bảo chúng ta rằng, không có người nào được tìm thấy ở bất cứ đâu. Không có Đức Phật, không có tôi, và cũng không có bạn. Chỉ có những phiên bản khác nhau của 5 Uẩn trôi qua thời gian, tan rã rồi tụ hợp lại.
Tôi, bạn, anh ta,… chỉ là các phiên bản của cùng một sự sống, được phân tách bởi cái mà gọi là cái chết. Chúng ta đều trải nghiệm cuộc sống của mỗi người khác nhau, trong tất cả chúng ta. Cái chết được tạo ra bởi tâm trí con người, nó không tồn tại. Chúng ta được trải nghiệm tất cả các góc cạnh của cái gọi là sự sống. Chết là sự thay đổi trong tiến trình sống của một thân xác riêng biệt nào đó. Sự hòa hợp chấm dứt và sự tan rã xảy ra. Chỉ có hàng triệu thân xác được tạo ra và bị hủy diệt, còn bản chất thực tại thì bất sinh và bất tử. Chẳng có ai chết vì chẳng có ai đã được sinh ra.
Hiểu được bản chất Vô Thường (luôn thay đổi) và Vô Ngã (không có cái “tôi” cố định, độc lập) của 5 Uẩn, và buông bỏ sự chấp thủ vào chúng, không còn sợ hãi trước thay đổi, và tìm thấy bình an ngay trong hiện tại. Đó là con đường dẫn đến Niết Bàn, sự giải thoát khỏi khổ đau. Sự giải thoát thực sự chỉ đơn giản là thoát khỏi những mộng tưởng đang có. Sự giải thoát không phải là đạt được điều gì, mà là thấy rõ bản chất Vô Thường của mọi thứ và sống hòa hợp với nó. Đây là hành trình không có đích đến, đòi hỏi sự tỉnh thức liên tục. Ta sẽ liên tục thất vọng trong quá trình tìm kiếm miệt mài, cho đến khi dần biết cách chấp nhận, buông bỏ mọi kháng cự để hòa hợp với dòng chảy của vũ trụ.
Đây là quá trình phá vỡ ảo tưởng về “cái tôi bản ngã”, hướng đến một sự chuyển dịch nhận thức từ cảm giác hạn chế sang một nhận thức rộng mở và kết nối hơn. Không còn là một giọt nước riêng biệt mà nhận ra mình là đại dương rộng lớn và không giới hạn. Bản chất nguyên sơ ấy là vô biên, không nguyên nhân, không đích đến, không chia cắt, không phân biệt, chẳng hề thiếu sót, chỉ có viên mãn và trọn vẹn.
Bản ngã tồn tại dựa trên sự phân biệt giữa “tôi” và “người khác”. Nó nuôi dưỡng nỗi sợ bị đánh giá, bị từ chối, hoặc không được thấu hiểu, vì sự tồn tại của nó phụ thuộc vào cảm giác riêng biệt. Việc thấy mình khác biệt với người khác không phải là vấn đề của thế giới bên ngoài, mà là sản phẩm của tâm trí, vì cái tôi luôn so sánh, phân loại, và tạo ra ranh giới. Khi không thấu hiểu bản chất thật của mình, ta mới khao khát người khác phải hiểu một phiên bản mà ngay cả ta cũng chưa chạm tới.
Từ “tôi” đến “chúng ta”, sự thức tỉnh này không phủ nhận cá tính, mà giúp ta thấy mình là một phần hữu cơ của tổng thể. Khi nhìn đời bằng con mắt “không phân biệt”, ta không còn tranh đấu để khẳng định cái tôi, từ đó sống tự do và bao dung hơn. Thấy mình trong người khác, thấy người khác trong mình, đây là nền tảng của tình yêu thương vô điều kiện.
Chẳng có sự tồn tại nào trong trạng thái tách biệt. Ta nhận ra sự khác biệt trong tất cả và sợ người khác không hiểu mình, đó là sự hiện diện của cái tôi, nó luôn sợ hãi. Tĩnh lặng chính là nhận ra ta vốn là tất cả và không tách biệt.
Sự tĩnh lặng không phải là trạng thái tê liệt hay thờ ơ, mà là cánh cửa mở vào thực tại tối hậu, nơi mọi khác biệt tan biến vào vũ trụ hài hòa. Khi cái tôi ngừng gào thét đòi được công nhận, ta mới thực sự “là” mà không cần nỗ lực để “trở thành”. Đây không chỉ là triết lý, mà là trải nghiệm sống động của những ai muốn bước vào hành trình quay về với bản thể nguyên sơ, nơi không có “tôi” và “người khác”, chỉ còn sự sống tuôn chảy bất tận.
Đức Phật thấy con người sống cuộc đời mình trong sự vô minh hoàn toàn về thực tại tối thượng. Chúng ta quan sát cơ thể, cảm giác, suy nghĩ, mong muốn và ý thức của mình, và gọi chúng là của mình. Chúng ta bám víu và trở nên gắn bó với chúng. Chúng ta tích lũy tài sản, chạy theo địa vị xã hội, các mối quan hệ, trải nghiệm, sự giàu có. Nhưng định mệnh không thể tránh khỏi cướp đi tất cả những gì chúng ta tích lũy. Từng chút một, thời gian và sự thay đổi lấy đi tất cả những gì chúng ta nghĩ là thuộc về mình. Cuối cùng, chúng lấy đi chính mạng sống của chúng ta.
Không có ý nghĩa nào khác trong thế giới này ngoài ý nghĩa mà chúng ta mang đến cho nó. Quá khứ và tương lai chỉ tồn tại ở trong tâm, thời gian ở trong tâm. Tính nhiều và đa dạng chỉ tồn tại ở trong tâm. Trong thực tại, tất cả ở đây và bây giờ, tất cả là một, và một là tất cả.
“Bạn không phải là những gì bạn nghĩ. Bạn là không gian vô tận đằng sau những suy nghĩ ấy.”
– Eckhart Tolle –
Thực tại tồn tại không phải từ ý thức của con người, vì ta đâu có kiểm soát được nó. Nó không chứa đựng ý nghĩa sẵn có, giống như một tờ giấy trắng chưa được vẽ lên. Ý nghĩa do ký ức tạo ra là sự gán ghép chủ quan của con người vào sự vật, sự kiện. Chính những ý nghĩa mà chúng ta đang ảo tưởng ra đã tạo nên bản ngã.
Ta cần phải vượt qua bản ngã (ảo tưởng cá nhân) và tìm ra bản chất thật của mình, nó luôn thuần khiết, còn ký ức được bồi đắp từ khi chào đời và chỉ gói gọn trong kiếp sống của thân xác. “Cái tôi bản ngã” được hình thành qua quá trình sống, trải nghiệm, học hỏi và tương tác với môi trường xung quanh. Nó có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Còn “cái tôi thực sự” không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nó là phần không thể thay đổi, vĩnh cửu của mỗi chúng ta.
Thời gian chỉ là hình thức của tri giác cảm tính. Bất kỳ cái gì có sự khởi đầu đều có sự kết thúc. Cái giả thì luôn thay đổi, nhưng cái thật thì bất biến. Cái thật không bị giới hạn bởi khái niệm thời gian, không bắt đầu nên không có kết thúc.
Ta luôn cần một hình mẫu tốt đẹp để học cách trở nên tốt đẹp. Ta luôn cần một hình mẫu tự tin để học cách trở nên tự tin. Lúc nào ta cũng cần một hình mẫu để sao chép, ta không thể độc lập vì không biết mình là ai. Nhưng chỉ trong một mình ta mới chịu nhìn vào nội tâm chính mình. Ta là cái chung hay là cái khác biệt? Cái khác biệt không đem lại sự đồng cảm, nó khiến ta trở nên tự ti hoặc tự mãn, ta thoát khỏi sự phân biệt đó bằng cách tìm về cái chung. Cái chung thì không phân biệt, đó là cơ sở của sự đồng cảm và khởi sinh lòng từ bi. Ích kỷ là biểu hiện của tính cá nhân. Con đường thoát khỏi tính cá nhân là đi tìm cái chung, cái chung thì không có bản ngã.
Ta thấy mọi sự lẫn lộn và méo mó trong giấc mơ thật hợp lý, bởi vì ta đang nằm mơ, chỉ khi tỉnh dậy ta mới thấy nó vô lý thế nào. Vậy có gì để phủ nhận thực tại mà ta đang trải nghiệm cũng chỉ là một giấc mơ khác, chỉ là ta không nhận ra sự vô lý của nó mà thôi.
Giấc mơ của thân xác được trải nghiệm trong khi ngủ. Nhưng trạng thái thức cũng chỉ là một hình thái khác của giấc mơ, vì nó chỉ là những ảo tưởng trong giới hạn của thân xác, nó là giả, nó không phải cái thật. Ta không cần phải đưa giấc mơ đến một kết thúc nhất định, hay làm cho nó ý nghĩa, cao thượng, vui thú và đẹp đẽ, tất cả những gì cần là nhận ra ta đang nằm mơ, ta cần trở nên tỉnh thức.
“Một người đàn ông đi đến tu viện và hỏi một tu sĩ : “Ngài đã học được điều gì từ cuộc sống thầm lặng của mình?”. Nhà sư đang múc nước từ giếng và nói với du khách: “Hãy nhìn xuống giếng và cho tôi biết bạn thấy gì?”. Người đàn ông nhìn vào giếng. “Tôi không thấy gì cả”. Sau một lúc, trong khi vẫn hoàn toàn bình tĩnh, nhà sư nói với vị khách: “Hãy nhìn lại xem, bạn thấy gì trong giếng?”. Người đàn ông vâng lời và trả lời: “Bây giờ tôi nhìn thấy chính mình: hình ảnh phản chiếu của tôi trong nước”. Nhà sư nói: “Bạn thấy đấy, khi tôi thả xô xuống nước chuyển động. Tuy nhiên, bây giờ nước đã tĩnh lặng. Và đây là trải nghiệm của sự im lặng: con người nhìn thấy chính mình!”. Hôm nay, hãy chọn một góc yên tĩnh và tận hưởng sự im lặng.”
– Claudia Pasquariello –
Đọc các bài tương tự tại link sau:
Tâm và Đạo: Đạo Phật luận giải (Phần 2)