Vô Thường
Điều gì thúc đẩy vũ trụ vận động không ngừng? Sự thúc đẩy một cái vô hạn, nếu có bất cứ sự xác định nào, nó trở thành hữu hạn, và do đó, tự phủ nhận tính toàn năng và sự tồn tại của chính nó. Theo Đạo Phật, không có một điều gì bên ngoài kiểm soát và thúc đẩy sự vận động của vũ trụ. Sự vận động và thay đổi là bản chất cố hữu của mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ, đó là tính Vô Thường của chúng.
Chúng ta phải công nhận sự phức tạp không thể thu gọn của vũ trụ vào một nguyên nhân duy nhất. Không tồn tại một “nguồn gốc đầu tiên” cố định, không có một điểm gốc hay điểm dừng thực sự. Tất cả biểu hiện ở dạng năng lượng. Điều đó tạo nên một dòng chảy vô tận, không có điểm bắt đầu hay kết thúc.
Vũ trụ không phải một thực thể tĩnh tại, mà là dòng chảy năng lượng và vật chất liên tục biến đổi. Từ sự ra đời và cái chết của các ngôi sao, đến chu kỳ sinh diệt của muôn loài, mọi thứ đều tuân theo quy luật “thành – trụ – hoại – không” (sinh ra – tồn tại – suy tàn – tan biến). Đây là cân bằng động, nơi cái chết của một hệ thống trở thành nguyên liệu cho sự sống khác. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “yên bình”, mà là sự đối trọng giữa các lực đối lập. Cái chết là điều kiện cho sự sống mới, như lá rụng nuôi dưỡng đất để cây non mọc lên. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “hoàn hảo” để giữ gìn, mà là quá trình liên tục tự điều chỉnh thông qua sinh diệt.
Nhân – Duyên – Nghiệp – Quả
Tâm trí con người có khuynh hướng tìm kiếm trật tự nhất định. Tuy nhiên, khi vượt qua những giới hạn của tư duy, chúng ta lại đối diện với khả năng của sự ngẫu nhiên, một yếu tố mang tính hỗn loạn và khó đoán. Các quy luật chỉ có hiệu lực trong một phạm vi nhất định, và khi trật tự tan vỡ, chúng ta thường tìm đến sự ngẫu nhiên như một lời giải thích cho những điều không thể lý giải.
Hậu quả được nhìn nhận qua lăng kính sự chuyển động, đó là khi một sức mạnh này lấn át sức mạnh khác. Vũ trụ vận hành theo quy luật Nhân Quả, sự vận hành của nó không phải là ngẫu nhiên. Nhưng tâm thức giới hạn không có khả năng đoán trước. Sự ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối đến từ tâm thức giới hạn.
Đạo Phật nhìn thế giới như một dòng chảy mênh mông, gồm những sự kiện nối kết lại và cùng dự phần tác động lên nhau. Và khi nhìn vào tiểu tiết, ta thấy những phân đoạn của nguyên nhân và kết quả nối đuôi nhau tạo thành những vòng lặp Nhân Quả vô tận.
Vạn vật không thể chối bỏ, chạy trốn nhau nếu đó là một chuỗi các kết nối được gắn kết. Đâu đó giữa vòng pháp luật, con người có thể lợi dụng kẽ hở luật pháp (lách luật) nhưng dưới con mắt của đạo lý Duyên sinh Nghiệp báo, không ai có thể khoét vách, đào tường, vượt khỏi tầm kiểm soát của luân lý. Chúng ta không thể hoàn toàn xóa bỏ hoặc thay đổi Nghiệp đã gieo. Dù có thể tạo Nghiệp mới tốt hơn để cải thiện tương lai, nhưng những Quả đã chín muồi thì khó tránh khỏi.
Nhân là chủ thể, Nghiệp là hành động của chủ thể, Nghiệp nào thì dẫn đến Quả đó. Nhân Quả là quá trình đó, nó lặp đi lặp lại không hồi kết. Nhưng một kết quả không chỉ đến từ Nghiệp cá nhân, mà còn do cả Nghiệp từ những cá nhân khác, họ là những Duyên (điều kiện hỗ trợ) xảy đến. Những mối liên hệ đa chiều đó tạo nên mạng lưới Duyên Khởi.
(Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma có nghĩa là “làm hay hành động”. Nghiệp là hành động chứ không phải là kết quả của hành động như chúng ta thường hiểu lầm.)
Thật ra chúng ta không bao giờ hiểu được nguyên lý Nhân Quả một cách sâu sắc vì tiến trình từ Nhân đến Quả qua quá nhiều Duyên. Nhân – Duyên – Nghiệp – Quả không phải là đường thẳng.
Một Nhân (hành động) cần vô số Duyên (điều kiện) mới chín muồi thành Quả, giống như hạt giống cần đất, nước, ánh sáng,… mới thành cây. Sự tương tác giữa các Duyên bao gồm tương thuận (hỗ trợ), tương phản (cản trở), tương tức (nương tựa), tương nhập (thẩm thấu), tạo thành mạng lưới vô cùng phức tạp. Tiến trình Nhân Quả rất phức tạp, có khi nhanh, có khi chậm, thường thì thành Quả nhưng cũng có khi Nhân bị tiêu trừ không thành Quả.
“Đất sét là cần thiết để làm ra cái bình, nhưng bản thân một mình đất sét thì không đủ để làm ra cái bình. Nếu không có nước (để nhào nặn), không có bàn xoay, thì không làm ra cái bình được. Không có ý định làm cái bình thì ngay cả có đủ những điều kiện cần nói trên cũng không có cái bình. Tất cả những yếu tố trên đều phải có đủ mới làm ra được cái bình. Nếu có một yếu tố nào không có, thì chắc chắn sẽ không có cái bình được làm ra. Vì vậy, sẽ không chính xác khi nói rằng đất sét là nguyên nhân làm ra cái bình. Dù có một cánh đồng đất sét ngoài kia, nhưng không liên quan gì đến sự ra đời của những cái bình. Người ta thậm chí phải đưa thêm rất nhiều yếu tố tác nhân khác mới làm ra gạch, ngói, vách nhà,… Cách diễn đạt chính xác nhất là: nhờ vào (tùy thuộc vào, nhờ có, do có) đất sét, cái bình được làm ra.
Ngay cả đã đủ các yếu tố tác nhân là đất sét, nước, bàn xoay,… và cả ý định làm cái bình, nhưng trong một quá trình phức hợp, chưa chắc đã làm ra được cái bình. Ví dụ, trục bàn xoay bị ẩm ướt do thời tiết và tạo ma sát thường xuyên làm ảnh hưởng đến tốc độ vòng tua của bàn xoay, người thợ cuối cùng không thể làm ra cái bình cao để cắm hoa, mà chỉ có thể làm ra cái chén thấp. Nếu trục bàn xoay bình thường, thuận duyên, thì cái bình đã được làm ra. Nhưng trục bàn xoay bỗng nhiên không được bình thường, nghịch duyên, nên chỉ có thể làm ra cái chén. Điều kiện trục bàn xoay là nghịch duyên đối với cái bình và lại là thuận duyên đối với cái chén, mặc dù ý chí của người thực hiện là làm ra cái bình.
Cũng với lý nhân duyên này mà một người trên bước đường tu tập gặp phải những nghịch duyên, chướng duyên làm cho mục tiêu không thể đạt được, nếu hiểu được quy luật tự nhiên này thì không thoái chí hay nản lòng, mà nên quán chiếu thêm về nhân duyên hay nghiệp báo.”
Duyên Khởi
Đức Phật phủ nhận mọi thuyết sáng thế hay duy vật, phá bỏ tà kiến về “khởi nguyên”, hướng đến nhận thức về tính Duyên sinh, vạn vật tồn tại nhờ tương tác Nhân Duyên, không có tự ngã. Đạo Phật không nhìn nhận vũ trụ bị kiểm soát bởi một thực thể duy nhất, hay một ý chí tối thượng theo cách các tôn giáo độc thần mô tả. Đức Phật khai thị giáo lý Duyên Khởi, giải thích rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều phát sinh và tồn tại dựa trên sự tương thuộc lẫn nhau. Không có bất kỳ điều gì tự mình sinh ra và tồn tại độc lập, tách biệt khỏi các yếu tố khác.
Tất cả mọi thứ đều có mối liên hệ, nhưng không có sự sắp đặt nào mà tự vận hành dựa trên sự tác động qua lại lẫn nhau. Không có một thực thể độc lập và tất cả những chuỗi Nhân Duyên móc nối với nhau. Sự thay đổi của hệ thống này sẽ dẫn đến sự phá vỡ trật tự của hệ thống khác, vì tất cả đều có mối liên kết, chỉ là mối liên kết ở gần sẽ biểu hiện rõ ràng và trực tiếp hơn.
“Mối quan hệ giữa tất cả chúng ta giống như một cái cây lớn với hàng ngàn chiếc lá trên đó. Những chiếc lá trên cùng một cành cây với ta sẽ đặc biệt gần gũi. Chúng ta thậm chí có thể cùng chia sẻ những trải nghiệm về ý thức với nhau. Có thể có ba, bốn hoặc năm lá trên cành cây của ta. Ta cũng có mối liên quan mật thiết với những chiếc lá ở cành cây bên cạnh. Chúng ta đều thuộc cùng một cành to. Họ ở gần với ta, nhưng không gần với những chiếc lá khác trên cành cây của ta. Tương tự như vậy, khi mở rộng ra xa hơn dọc theo thân cây, ta còn liên quan đến những chiếc lá hay những ý thức khác, nhưng không chặt chẽ như những người ở gần ta. Chúng ta đều là những bộ phận trên cùng một thân cây. Chúng ta có thể chia sẻ những trải nghiệm với nhau. Chúng ta biết nhau, nhưng những người trên cùng một cành cây với ta là gần gũi nhất.
Có nhiều cây khác trong khu rừng xinh đẹp này. Mỗi cây được kết nối với những cây khác thông qua hệ thống rễ nằm sâu dưới lòng đất. Vì vậy, dù có thể có một chiếc lá nằm trên một thân cây phía xa có vẻ rất khác biệt và xa cách đối với ta, ta vẫn có sự kết nối với chiếc lá đó. Ta có thể kết nối với tất cả những chiếc lá, nhưng ta được kết nối chặt chẽ nhất với những chiếc lá ở trên cây của ta. Và càng kết nối mật thiết hơn với những người trên cùng một nhánh. Và gần như là một với những chiếc lá trên cùng một cành với mình.”
(Hành trình về Phương Đông – Baird T. Spalding)
Nhận thức của chúng ta về vũ trụ thường bị giới hạn trong phạm vi cá nhân, chỉ nhìn thấy những mảnh vỡ rời rạc. Do đó, một ảo tưởng nảy sinh rằng có những thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau và tách rời khỏi chính chúng ta. Trong mạng lưới Duyên Khởi, mỗi “cái tôi” là một nút thắt tạm thời, và ý thức con người cũng là một phần trong đó, không có thực thể kiểm soát riêng biệt.
Duyên Khởi nói rằng, tất cả các Pháp (hiện tượng) sinh khởi đều phụ thuộc vào những Pháp khác: “Nếu cái này tồn tại thì cái kia tồn tại, nếu cái này đoạn diệt thì cái kia cũng đoạn diệt”. Duyên Khởi là tất cả những hiện tượng thế gian khởi lên là do nhiều điều kiện hay nhiều Nhân nhiều Duyên mà được thành lập.
Ví dụ: Một cây lúa sinh ra từ hạt giống (Nhân) nhờ đất, nước, ánh sáng (Duyên).
Đạo Phật có câu:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”
Nghĩa là:
“Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc,
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”
Câu kinh chỉ ra sự tương quan, tương hỗ giữa Sắc và Không.
– Sắc: Chỉ mọi hiện tượng vật chất, hình tướng có thể cảm nhận bằng giác quan.
– Không: Chẳng phải là “trống rỗng” theo nghĩa hư vô, mà là sự vắng mặt của tự tính độc lập. Mọi sự vật đều tồn tại nhờ Duyên sinh, không có bản chất cố định.
Ví dụ:
– Sóng (Sắc) là biểu hiện của nước (Không). Sóng không khác nước, nước không khác sóng. Khi sóng tan, nước vẫn tồn tại. Sự “mất đi” của sóng chỉ là trở về với bản chất nguyên thủy.
– Một đám mây (Sắc) không tồn tại độc lập, mà là sự kết hợp của hơi nước, nhiệt độ, áp suất,… Khi các điều kiện này thay đổi, đám mây tan biến (Không). Đám mây và sự tan biến của nó chỉ là hai trạng thái của một quá trình duyên sinh.
– Một cái bàn (Sắc) chỉ là tên gọi cho sự kết hợp của gỗ, đinh, công thợ,… Nếu tách rời các yếu tố này, “bàn” không còn tồn tại (Không).
“Sắc tức là Không”: Hình tướng, vật chất chính là tánh Không khi được nhìn nhận ở cấp độ bản chất sâu xa nhất. Sự “có mặt” của Sắc chỉ là sự biểu hiện tạm thời của tánh Không.
“Không tức là Sắc”: Đồng thời, tánh Không chính là nền tảng cho sự biểu hiện của mọi hình tướng. Nếu chẳng có tánh Không, thì chẳng có sự sinh khởi và tồn tại của bất kỳ hình tướng nào.
Đây là mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực. Khả năng là Không, nhưng không phải hoàn toàn không có gì mà chỉ là chưa hiện hữu rõ ràng. Hiện thực là Sắc, cái tồn tại thực nhưng phải bắt nguồn từ khả năng. Nghĩa là, nếu không có khả năng thì cũng không có hiện thực được. Còn hiện thực mất khả năng tồn tại thì cũng sẽ trở thành Không.
Vì vậy, ta hiểu rằng, mọi sự vật dù có hình tướng cụ thể đến đâu, về bản chất đều không có một thực thể độc lập, cố định. Ngược lại, không gian, sự trống rỗng cũng luôn chứa đựng tiềm năng để tạo thành sự vật mới.
12 Nhân Duyên
Nếu dựa theo quan điểm Lục Căn trong Đạo Phật, thì ngoài 5 căn Mắt/Tai/Mũi/Lưỡi/Thân ra thì Ý là “giác quan” thứ 6, và nó để tiếp nhận Pháp, Pháp là đối tượng của ý, đó là những suy nghĩ. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm, ý thức. Thức là hành vi của Ý. Ý thức là chỉ việc nhận ra, tiếp nhận những suy nghĩ. Cũng giống như 5 giác quan kia, mỗi thứ đều bị hấp dẫn với Sắc/Âm/Hương/Vị/Xúc thì Ý bị hấp dẫn với Pháp là những suy nghĩ, sáng kiến, tưởng tượng,… khiến cho ta lan man và vướng mắc vào chúng.
Ý thức là sản phẩm của sự tương tác giữa Nhân (yếu tố chủ quan) và Duyên (yếu tố khách quan). Có thể nói, ý thức là một sự phản ánh, nó xảy ra dựa trên các điều kiện. Điều kiện từ ngoại cảnh là Duyên, điều kiện từ chủ thể là Nhân thông qua việc làm, hành động. Những hành động trong quá khứ đều để lại dấu ấn trong tâm thức. Một “hành động bản ngã” sẽ củng cố một “ý thức bản ngã”, và “ý thức bản ngã” lại thúc đẩy những “hành động bản ngã”. Đây là vòng luẩn quẩn giữa hành động và ý thức trong dòng chảy không ngừng của cuộc sống.
Năng lượng khổ của ý thức là dòng chảy liên tục trong luân hồi. Chúng ta là tấm gương phản chiếu dòng chảy đó, nhưng lại tự nhận là dòng chảy mà không nhận ra sự “trong suốt” của mình. Khổ chỉ tồn tại khi ta đồng nhất mình với hình ảnh trong gương. Ta giải phóng năng lượng khổ bằng cách gây khổ cho người khác, chúng ta gây khổ lẫn nhau và không ngừng gieo thêm nhiều hạt giống khổ.
Vòng tròn Duyên Khởi gồm 12 Nhân Duyên, có thể coi là 12 mắt xích được liên kết, đó là: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử.
Trong vòng tròn Duyên Khởi, mỗi mắt xích vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả. Duyên này kết chặt với Duyên kia tạo thành một chuỗi nhân quả khép kín. Phá vỡ một mắt xích, cả vòng xoáy tan rã. Duyên này diệt, Duyên kia sẽ diệt và toàn bộ 12 Duyên cũng sẽ diệt. Đây là chìa khoá chấm dứt đau khổ, chấm dứt luân hồi. Vô minh là viên gạch đầu tiên trong chuỗi 12 Nhân Duyên. Đức Phật chỉ ra con đường chấm dứt đau khổ bằng sự chấm dứt Vô Minh.
Mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, mỗi yếu tố là nguyên nhân và cũng là kết quả của yếu tố khác. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong luân hồi. Một con người hoàn thiện bao gồm tâm lý và cơ thể vật lý (Danh Sắc), đây là chủ thể, là nguyên nhân chính (Nhân) – tâm lý, vật lý là cơ sở để tiếp nhận Duyên (điều kiện hỗ trợ). Danh Sắc tiếp nhận các điều kiện bên ngoài thông qua 6 Căn (Lục Nhập). Khi 6 Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với 6 Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra Thọ (cảm giác, cảm xúc). Từ tiếp xúc mà khởi lên thích hay không thích. Từ Thọ sinh ra Ái, đó là khát khao nắm giữ hoặc xua đuổi. Ví dụ, Thọ lạc (cảm giác dễ chịu) sinh ra Ái dục (muốn nắm giữ), Thọ khổ (cảm giác khó chịu) sinh ra Ái sân (muốn xua đuổi), Thọ xả (cảm giác trung tính) sinh ra Ái si (mơ hồ, không rõ ràng). Tuy nhiên, Ái chỉ là một tâm lí phát sinh ra do con người khởi lên thích chứ chưa nắm bắt, chưa chạy theo đối tượng. Từ Ái sinh ra Thủ (chấp thủ), Thủ là truy bắt đối tượng theo cái Ái của mình. Tất cả những chấp thủ này đều để lại năng lượng và dần tích lũy thành các kinh nghiệm về đời sống của cái tôi. Hữu là trạng thái tồn tại được định hình bởi những năng lượng đó. Hữu là kết quả của những gì con người đã chấp thủ và tích lũy trong quá trình sống. Nó là mầm mống nuôi dưỡng cho luân hồi và đau khổ không chấm dứt.
Giác ngộ
Nghiệp (lực) là sự thúc đẩy tạo thành một chuỗi Nhân Quả liên tục giữa thiện và ác. Hóa giải Nghiệp (giác ngộ, giải thoát) không có nghĩa là trả nợ cái xấu để đạt được cái tốt, nó không phải “giao dịch kế toán” giữa thiện và ác. Khi tin rằng nếu làm đủ điều thiện, ta sẽ “vượt qua” điều ác, ta rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên (hệ thống tốt/xấu), và vẫn nương tựa vào một hệ thống cân bằng công lý, làm điều xấu phải trả giá, làm điều tốt để bù đắp.
Tính chất “bất khả tư nghị” (không thể nghĩ bàn) của tác động tâm thức từ Nhân đến Quả, cho nên chúng ta cũng không cần mất nhiều thì giờ để tư duy về Nhân Quả. Vì quá trình tư duy chỉ là cách con người áp đặt trật tự, không phải quy luật vĩnh cửu. Nhân xuất phát từ “ý chí hành động” của con người. Đó là mong muốn tác động và kiểm soát thế giới. Quả là hậu quả của việc gán ghép một kết quả vào một nguyên nhân cụ thể. Khi chúng ta thấy một sự kiện xảy ra, chúng ta gán cho nó một nguyên nhân như cách để “áp đặt trật tự” lên hỗn mang.
Điều đó càng củng cố ảo tưởng về cái “tôi” – thứ luôn tìm cách “sở hữu” kết quả (ví dụ: “tôi đang tích đức để được tái sinh nơi an lành”). Mà theo Đạo Phật, chính ảo tưởng về cái “tôi” mới là gốc rễ của Nghiệp. Một người từng hại người, nay ăn chay trường và bố thí để xóa Nghiệp. Hành động này vẫn xuất phát từ ý niệm “tôi cần sửa chữa”, tức là duy trì cái “tôi” và kích hoạt thêm Nghiệp mới (dù mang màu sắc “tốt”).
Tại sao người tốt vẫn cảm thấy đau khổ?
Sự đau khổ của người tốt không phải là một lỗi của vũ trụ. Đau khổ không phải là sự trừng phạt cho người tốt, mà là hệ quả tất yếu khi họ bám chấp vào khái niệm “tốt/xấu”. Dù sống đạo đức, họ chưa thoát khỏi vô minh, mà vẫn dính mắc vào cái “tôi” mong đạt được điều tốt và từ chối đón nhận điều xấu. Hóa giải Nghiệp không phải là đích đến của sự đối kháng giữa hai mặt, ta sẽ rơi vào cuộc chiến không hồi kết để duy trì sự tốt đẹp. Tốt và xấu là hai mặt của một thể thống nhất, như hai mặt của một đồng xu, ta không thể thiên lệch hay chỉ giữ lại một mặt.
Hóa giải Nghiệp không phải là “trả nợ” cá nhân, mà là hòa tan cái “tôi” vào đại thể. Đó là sự chấm dứt hoàn toàn của vòng quay Nhân Quả vô tận, để trở về với trạng thái tiềm năng của khởi nguyên. Khi đó, ta không còn coi Nghiệp là “vấn đề của riêng mình”, mà nhận ra chúng sinh đều chìm đắm trong biển Nghiệp. Giác ngộ không phải là trạng thái “sạch” Nghiệp hay “tích đủ công đức”, mà là sự giải thoát khỏi ảo tưởng về sự tồn tại của Nghiệp. Như con chim sổ lồng, nó không thoát khỏi cái lồng, mà thấy rõ cái lồng không tồn tại.
Ý thức và vật chất
Nếu vật chất là sự phản ánh của ý thức trong mối quan hệ hai chiều, thì sự giải thoát về mặt ý thức sẽ dẫn đến thực tại vật chất thay đổi như thế nào?
Vật chất không có ý nghĩa cố định, ý nghĩa và giá trị của nó được gán bởi ý thức. Vật chất là sự phản chiếu của ý thức qua cách ta cảm nhận và khái niệm hóa nó.
Ngược lại, ý thức đồng thời bị chi phối bởi cấu trúc vật chất (hệ thần kinh). Ý thức của chúng ta, ít nhất là một phần, nảy sinh và phụ thuộc vào sự tương tác của vật chất (cơ thể, não bộ, giác quan với môi trường).
Ý thức thay đổi cách cảm nhận vật chất, sự tương tác của vật chất với vật chất tạo ra trải nghiệm ý thức. Đó là mối quan hệ hai chiều mà không có chiều nào là nguồn gốc. Đó không phải là mối quan hệ Nhân Quả mà là sự đồng khởi, nơi cả hai cùng xuất hiện và ảnh hưởng lẫn nhau. Như thiền sư Dogen giảng: “Không phải tâm tạo ra cảnh, cũng không phải cảnh tạo ra tâm, mà là tâm/cảnh cùng một lúc hiện tiền”.
Đó không phải là ý thức gây ra vật chất, HOẶC, vật chất gây ra ý thức, mà là sự phản hồi đồng thời không thể tách rời. Đó là bản chất phi nhị nguyên của thực tại, hiểu điều này ta không còn phải chọn phe. Không có “ý thức thuần túy” đứng trên vật chất, cũng không có “vật chất thuần túy” tạo ra ý thức. Giác ngộ không phải là “hiểu được nguyên nhân”, mà là thấy rõ sự hòa hợp này. Khi đó, ý thức và vật chất không còn là hai thứ để tranh luận, chúng chỉ là tên gọi tạm bợ cho một thực tại không thể chia cắt.
Sự giải thoát của ý thức không làm biến mất thực tại vật chất. Thay vào đó, nó giải phóng thực tại vật chất khỏi những ý niệm và phiền não mà ta đã gán lên nó. Trong trạng thái giải thoát, vật chất vẫn tồn tại, nhưng không còn bị “bao phủ” bởi tâm phân biệt. Đây không phải là sự phủ nhận thế giới quan, mà là “cứu chuộc” nó. Thế giới không thay đổi, nhưng cách ta nhận thức về nó đã thay đổi hoàn toàn.
Vật chất không còn là “vật cản” hay “đối tượng để chiếm hữu”. Trước giải thoát, cái ly là “cái ly của tôi”, “cái ly đẹp/xấu”, “cái ly để uống nước”. Nó tồn tại như một đối tượng tách biệt, nó phục vụ cho nhu cầu và đánh giá của cái “tôi”. Sau giải thoát, chiếc ly được nhìn nhận trong bản chất Duyên Khởi là sự kết hợp của đất, nước, lửa (nung), không khí, công lao người thợ gốm, người vận chuyển,… Nó không còn tự tính cố định là cái “ly” mà ta gán cho nó. Người giác ngộ thấy được cả vũ trụ trong cái ly đó và không còn ý niệm sở hữu.
Trải nghiệm về màu sắc, hình khối, âm thanh không còn bị lọc qua quá khứ (dính liền với ký ức, phản xạ hay thói quen cũ). Đây là sự “thanh tịnh hóa các căn”. Một người giác ngộ nhìn thấy lá vàng chỉ là lá vàng, không gắn với ký ức, không phán xét “đẹp/xấu”, không sợ hãi “mùa thu tàn”. Âm thanh không còn là “tiếng mưa buồn”, mà là sự rung động thuần túy của không khí và nước.
Thời gian không có tự tính, nó chỉ tồn tại như quy ước của tâm thức. Trong thiền định, một hơi thở có thể kéo dài vô tận, không phải vì thời gian “chậm lại”, mà vì ý thức không còn đếm thời gian. Quá khứ (ký ức) và tương lai (lo âu) không còn chi phối. Ta sống trọn vẹn trong một khoảnh khắc hiện tại giãn nở vô tận.
Chúng ta không còn sống trong thời gian tuyến tính (quá khứ – hiện tại – tương lai) và không gian phân chia (cơ thể/tâm trí, ta/người), mối tương tác giữa “bên trong” và “bên ngoài” tan biến. Cơ thể không còn là cái “tôi”, mà là dòng chảy của Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Thiên nhiên không còn là “bên ngoài”, mà là phần mở rộng của tâm. Không gian và thời gian trở thành một trường năng lượng sống động, một mạng lưới liên kết mọi thứ.
Ta cảm nhận được sự thống nhất, ta là không khí ta thở, là cảnh vật ta nhìn thấy, không còn sự tách biệt. Đây là trải nghiệm “nhất thể”. Ta không còn nhìn vào vũ trụ, mà là vũ trụ đang trải nghiệm chính nó.
Ý thức thuần khiết
Mọi thứ đều có lý do. Khi truy tìm nguồn gốc của mọi lý do, ta sẽ đến một điểm khởi đầu nguyên sơ, nơi không còn sự phân chia giữa các khái niệm, và ngôn ngữ cũng mất đi khả năng diễn đạt. Đây có thể là một trạng thái trước khi tư duy và lý trí của con người hình thành. Con người có xu hướng lý giải mọi thứ, nhưng những lý do này không tuyệt đối. Chúng phụ thuộc vào góc nhìn, hoàn cảnh, và không có lý do nào là duy nhất hay hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Chúng ta luôn cố gắng neo giữ mọi thứ bằng lý do, nhưng mọi lý do đều chỉ là những điểm dừng tạm thời. Chân lý không nằm trong những lý do cụ thể mà con người có thể tìm kiếm hay diễn tả. Nó là một trạng thái vượt ra ngoài sự lý giải thông thường, không còn cần đến lý do hay nguyên nhân.
Những gì vượt quá khả năng nhận thức của cơ thể vật lý, đều nằm ngoài phạm vi mà chúng ta có thể nắm bắt. Điều này dẫn đến sự tồn tại một ý thức giới hạn của thân tâm. Những giới hạn này tạo ra các ranh giới mà ta không dám bước qua, đó là những nỗi sợ mơ hồ.
Cơ thể chính là ranh giới mà thông qua đó một phần của “ý thức vũ trụ” được biểu hiện. Mọi sự chia cắt hay phân mảnh đều tạo ra những ranh giới hữu hạn, qua đó một khuôn mẫu được định hình và gọi tên. “Ý thức cá nhân” chỉ là một phần nhỏ của ý thức vũ trụ, và cơ thể là phương tiện để phần ý thức đó tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể đóng vai trò như bộ lọc, chỉ cho phép một phần thông tin từ vũ trụ đi vào nhận thức. Mắt người chỉ thấy dải quang phổ hẹp, tai chỉ nghe âm thanh trong khoảng tần số nhất định. Cấu trúc sinh học của cơ thể quyết định cách ta cảm nhận thời gian, không gian, và bản thân sự tồn tại. Một con bướm trải nghiệm thế giới khác con người vì cơ thể chúng có giác quan và hệ thần kinh khác biệt.
Sợ hãi là biểu hiện của ý thức giới hạn. Sợ hãi là rào cản ngăn ta làm bất cứ điều gì đáng làm. Khi mà vẫn còn tự đồng hóa trong những ranh giới của tầm nhìn cá nhân, ta sẽ không bao giờ hết sợ hãi. Nhận ra mình không chỉ là “ý thức thân tâm” (một giọt nước) mà vốn thuộc về cái “ý thức toàn thể” (đại dương). Ý thức vô hạn đó không bị ràng buộc bởi bất cứ ranh giới và rào cản nào khiến nó sợ hãi cả. Ý thức vô hạn “không còn khả năng” nhận thức sự hữu hạn, vì với tầm nhìn vô hạn đã không còn sự phân biệt, không còn gắn liền với các hình tướng, và ngay cả chính nó dường như chẳng tồn tại.
Trong giới hạn của cá nhân, “ý thức thân tâm” khẳng định muôn vàn hình tướng và sự tách biệt. Còn cái “ý thức toàn thể” với nhận thức phá vỡ mọi ranh giới, đã không còn giới hạn và tính phân biệt, không còn quy ước, khuôn khổ và định danh nào, một trạng thái “không” vô cùng tĩnh lặng và không còn âm thanh của sợ hãi, không còn nhìn mọi thứ theo một góc cạnh nào cả, trở về với bản chất nguyên sơ là một thể “ý thức thuần khiết” không bị ràng buộc bởi các giới hạn, không còn định kiến hay sợ hãi.
“Ý thức thuần khiết” như là ánh nắng. Nhưng khi ánh nắng biểu hiện thông qua môi trường, nó bị đồng hóa bởi những gì nó chiếu vào.
– Khi mặt trời mọc và một tia nắng đi vào qua cửa sổ, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên bức tường phía tây, và tia nắng mang dáng dấp của bức tường.
– Nếu không có bức tường phía tây, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên mặt đất, và tia nắng trở thành mặt đất.
– Nếu không có mặt đất, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên mặt nước, và tia nắng mềm mại như mặt nước.
– Nếu không có nước, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Nó không chiếu xuống đâu cả.
Cũng như vậy, nơi nào không còn sự bám víu vào thân và tâm thì “ý thức thuần khiết” không phóng chiếu vào đó, nó là chính nó và không còn sự đồng hóa nào cả.
Đây là quá trình phá vỡ ảo tưởng của “ý thức thân tâm”, hướng đến một sự chuyển dịch từ cảm giác hạn chế sang một ý thức rộng mở và kết nối hơn. Không còn là một giọt nước riêng biệt mà nhận ra mình là đại dương rộng lớn và không giới hạn. Đây không phải là sự trống rỗng hư vô mà là khám phá một nền tảng sâu sắc hơn, giải phóng hơn của sự tồn tại ngoài khung của bản ngã được tạo dựng.
Ta không cần tìm kiếm sự thống nhất, ta chính là sự thống nhất đang tạm quên mình để đóng vai kẻ đi tìm. Thiền định hay mọi sự dẫn dắt nhằm hướng đến trải nghiệm “tan biến ranh giới cá nhân”, cảm nhận sự hợp nhất với vũ trụ.
Nhận thức rộng hơn, hay còn gọi là “ý thức toàn thể” không phải là mở rộng bộ não thành “siêu máy tính” và nắm bắt mọi chi tiết vũ trụ, mà là sự sụp đổ của lăng kính nhị nguyên. Nó là việc thấy cơ chế vận hành chứ không phải nắm giữ dữ liệu. Nó không đưa ta đến một “giới hạn rộng hơn”, mà là một sự “trống rỗng đầy đủ”, nơi mà mọi tiềm năng đều có thể phát sinh. Nó không phải là sở hữu tri thức vô hạn, mà là trở thành khoảng không trong đó vũ trụ tự biểu hiện, như mặt gương tự nhiên phản chiếu mọi vật mà không nắm giữ vật nào.
Nhận thức rộng hơn không phải là việc gom góp các mảnh kiến thức theo cách thông thường, mà là nhận biết mối liên kết nội tại của tất cả hiện tượng. Khi mà sự phân biệt ranh giới giữa “tôi” và “thế giới” dần tan biến, thì cái thấy tự nhiên bao trùm tất cả mà không cần cố gắng. Thay vì chỉ thấy mặt ngoài của sự vật, nhận thức rộng hơn có thể “đọc” được chiều sâu, nguồn gốc, và mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong trạng thái này, các mốc thời gian và cấp độ hiện hữu không còn là chỗ chứa riêng biệt, mà hòa quyện thành một dòng chảy liên tục của tri thức và kinh nghiệm.
Thế giới từ tâm thức
Những gì vượt quá ngưỡng nhận thức, dù quá lớn hay quá nhỏ, đều nằm ngoài phạm vi tồn tại mà chúng ta có thể nắm bắt. Những giới hạn này tạo ra những “sự vật” riêng biệt, và sự đan xen của những “khoảng trống” tách biệt chúng. Với nhận thức giới hạn đó mà mọi vật tồn tại trong thế giới con người. Những khoảng trống này không hư vô tuyệt đối, đó chỉ là những khía cạnh của thực tại mà nhận thức giới hạn chưa thể vươn tới.
Sự giới hạn trong tâm thức nảy sinh cơ chế so sánh và phân biệt. Mọi sự bất định xảy ra do tâm thức giới hạn. Tâm thức giới hạn này phân chia thế giới thành “có” và “không”, tạo ra ảo giác về một thực tại chia cắt và thay đổi. Nhận ra sự thật để không còn đồng nhất với những biểu hiện tạm thời của tâm thức, ta sẽ trở về trạng thái tĩnh lặng vốn có. Thực tại tĩnh lặng vô hạn và không phân biệt, nhưng không phải trống rỗng tuyệt đối, điều ta muốn ám chỉ là sự liên kết của toàn thể.
Bản chất thực tại là một tổng thể im lìm không lay chuyển, vượt ngoài mọi đối đãi nhị nguyên. Nếu đã vô hạn thì chẳng còn gì để nhận thức hay tưởng tượng. Vậy sự phân mảnh tạo ra các giới hạn của thực tại đến từ đâu?
Từ ý thức toàn thể tự phân thân thành các mảnh ý thức cá nhân, chúng ta đặt câu hỏi căn nguyên về động lực của sự tự phân thân này? Câu hỏi này giống như hỏi “tại sao nước lại sóng?” vậy. Sự “tự chia cắt” không phải hành động có chủ ý như con người cắt bánh, mà là đặc tính tự nhiên như mặt biển sinh sóng. Chúng ta tìm kiếm sự hòa giải giữa tính mục đích và tính ngẫu nhiên trong vũ trụ. Chính giới hạn mới tạo điều kiện cho vô hạn được trải nghiệm. Con người tìm thấy khổ đau và cũng tìm thấy ý nghĩa trong những giới hạn của mình. Ý thức toàn thể như ánh sáng, chỉ “thấy mình” khi phản chiếu qua vật cản (giới hạn của ý thức cá nhân). Ta không thấy không khí, nhưng thấy nó khi thành bong bóng nước.
“Ý thức toàn thể” tự chia cắt chính nó tạo ra thực tại phân mảnh, đó là bản chất của thực tại vốn đã chia cắt và từ sự chia cắt đó tạo ra “ý thức cá nhân”. Ở đây, ý thức toàn thể và ý thức cá nhân vốn là một, nó tự chia cắt và tự định nghĩa các mảnh ghép đó. Sự chia cắt đó xuất phát từ bản chất tự động, sáng tạo và tự biểu hiện của ý thức. Sự phân mảnh có thể không phải là một “hành động” có chủ ý khởi đầu, mà là một khía cạnh không thể tách rời của chính thực tại.
Ý thức toàn thể, vốn là sự thống nhất và vô hạn, lại “muốn” biết chính nó thông qua việc thể hiện ra ngoài sự đa dạng. Để ý thức có thể nhìn nhận và trải nghiệm bản thân, nó cần tự chia rẽ thành các mảnh nhất định. Quá trình tự chia cắt này giống như một vũ điệu sáng tạo, trong đó, nguồn gốc duy nhất không biến mất mà lại ẩn chứa trong mọi mảnh vỡ, trong mọi biểu hiện của “ý thức cá nhân”.
Sự chia cắt cũng là cách mà ý thức toàn thể “trải nghiệm” bản thân dưới hình thức hữu hạn và có thể định nghĩa. Nếu không có sự khác biệt, ý thức khó mà có động lực nhận diện chính mình một cách đa chiều. Chính nhờ vào sự phân mảnh, các khía cạnh của thực tại mới có thể được “đặt ra” các mốc, từ đó tạo thành một hệ thống nhận thức, dù giới hạn nhưng cho phép ta hiểu và so sánh.
Thực tại không phải là một khối đồng nhất bất biến, nó chứa đựng vô vàn hình thái, màu sắc và dạng thức. Sự chia cắt cho phép sự đa dạng này được thể hiện. Chính điều đó làm cho mỗi “mảnh vỡ” của thực tại đều mang một giá trị riêng, góp phần vào bức tranh toàn thể của ý thức.
“Chúng ta chỉ quan tâm đến những món trang sức bằng vàng, mà không quan tâm đến bản chất của chúng đều chỉ là vàng. Giữa những món trang sức khác nhau không hề có liên hệ nhân quả. Khi ta nấu chảy một món trang sức để làm thành món khác, không hề có liên hệ nhân quả giữa hai món. Yếu tố chung là vàng, nhưng ta không thể nói vàng là nguyên nhân. Vàng không thể được gọi là nguyên nhân, vì tự thân vàng chẳng tạo ra món trang sức nào. Nó được phản chiếu trong tâm như tên gọi và hình dáng riêng của món trang sức, nhưng tất cả đều là vàng. Cũng cách đó, thực tại làm cho mọi vật khả hữu, nhưng không có gì làm cho một vật như nó là, danh xưng và hình tướng của nó từ thực tại mà ra.”
– Osho –
Hữu hình và vô hình
Chủ thể đi tìm chính mình chỉ thấy một bản chất hư vô. Ta luôn tự hỏi, ai đang suy nghĩ ý tưởng này? Ta truy tìm mãi, chỉ thấy khoảng trống không chủ thể. Ý thức là một sự tự nhận thức. Nhưng ý thức thì không thể nhận biết được chính nó, vì sự nhận biết chỉ xảy ra khi có sự tách biệt chủ thể và đối tượng. Cũng giống như mắt không thể nhìn thấy mắt, mũi không thể biết mùi của mũi, miệng không thể biết vị của miệng,…
Mối quan hệ giữa chủ thể quan sát (vô hình) và đối tượng được quan sát (hữu hình), cả hai thực chất là một thể thống nhất bị phân ly bởi hành động nhận thức. Phần vô hình chính là phần hữu hình đang quan sát, phần hữu hình chính là phần vô hình được quan sát.
Chủ thể đang quan sát không nhìn thấy chính nó nên nó vô hình. Đối tượng chỉ hữu hình trong sự quan sát bên ngoài nó, bản thân nó cũng vô hình với chính nó. Chúng cùng một bản chất, nhưng để mô tả sự quan sát phải “tách” chúng ra để có thể định nghĩa. Ta buộc phải dùng ngôn ngữ nhị nguyên để mô tả thực tại phi nhị nguyên. Sự tách biệt giữa chủ thể và đối tượng chỉ là trò chơi ngôn ngữ của ý thức vũ trụ để trải nghiệm chính mình. Tự thân sự vật vô hình, một hòn đá không biết mình là “đá”, khái niệm ấy chỉ tồn tại trong ý thức sinh vật.
Vật chất chỉ “hiện hình” khi bị ý thức chiếu vào. Như Schrodinger nói: “Vật chất chỉ là sóng tiềm năng trước khi bị quan sát”. Tâm trí tưởng tượng có “cái tôi” riêng biệt quan sát “thế giới bên ngoài”. Thực chất, chủ thể là dòng chảy ý thức không có cốt lõi cố định, đối tượng là cấu trúc thông tin do ý thức giải mã.
Mắt giới hạn chỉ nhìn thấy vũ trụ giới hạn, tai giới hạn chỉ nghe được vũ trụ giới hạn. Chủ thể giới hạn chỉ nhìn thấy đối tượng giới hạn. Thế giới phong phú ta đang trải nghiệm được tạo nên từ sự giới hạn tâm trí. Muốn sửa chính mình phải quan sát được nó.
Bởi chủ thể không thể tự quan sát chính mình theo cách đối tượng được quan sát, nên nó luôn mang tính “vô hình” trong mối quan hệ này. Còn đối tượng, chỉ khi được đưa vào quá trình quan sát bởi chủ thể, nó mới hiện lên, dù chỉ có “vẻ ngoài” của nó.
Chủ thể và đối tượng, chúng có thể quan sát lẫn nhau, nhưng không thể quan sát chính mình. Ta chỉ có thể quan sát bản thân qua “tấm gương xã hội”. Điều đó ngụ ý rằng sự hiện diện của bản thân trong ý thức luôn cần được phản chiếu qua những đối tượng bên ngoài. Cái “tôi” cần “cái tôi khác” để tự nhận diện. Để làm vậy, ta phải có niềm tin nơi người khác. Niềm tin bắt nguồn từ sự thấu hiểu và đồng cảm, ta nhìn thấy chính mình trong họ, đó là sự tương đồng trong tần số. Sự tương đồng tần số mới tạo ra điểm dừng để nhận biết được nhau.
Suy nghĩ và tinh thần
Suy nghĩ của chúng ta không đơn thuần chỉ là những ý tưởng thoáng qua. Chúng liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một dòng chảy vô tận. Những suy nghĩ giống như những con sóng trên một dòng sông. Mỗi con sóng là một ý nghĩ, một cảm xúc. Những con sóng này nối tiếp nhau, tạo thành dòng chảy của cuộc đời. Cứ như vậy, suy nghĩ của chúng ta là kết quả của những suy nghĩ trong quá khứ, thậm chí có thể là từ những kiếp sống trước.
Suy nghĩ giống như những giọng nói bên trong nội tâm và ta không thể dừng nó lại. Nó xuất hiện khi thân xác này bắt đầu nhận thức được thế giới. Đó là những giọng nói không ngừng thúc đẩy ta. Ta không biết tại sao ta muốn một điều, ta không tự do khỏi mong muốn cá nhân. Khi ta “thức tỉnh” khỏi “giấc mơ” cá nhân, ta tự do khỏi mong muốn, và ở một “chiều cao hơn”, không có tính cá nhân nào.
Những suy nghĩ là sự kết hợp phức tạp giữa bản năng, ký ức và ảnh hưởng từ môi trường. Khi chúng ta nhận thức được tính tương đối của những tiếng nói này, chúng ta có thể vượt qua giới hạn của chúng và kết nối với một thực tại rộng lớn hơn. Nó là sự giao thoa giữa ý thức cá nhân và vũ trụ bao la.
Tinh thần là gì? “Tinh” nghĩa là tinh hoa, tinh túy, tinh khiết. Nó ám chỉ những gì quý giá nhất, là cốt lõi, bản chất của một sự vật, hiện tượng. “Thần” nghĩa là sự ám chỉ phần phi vật chất, không thể nhìn thấy, nhưng lại chi phối hành vi, tư tưởng và cảm xúc của con người. Tinh thần là năng lượng, là sức mạnh nội tại bên trong con người.
Nguồn năng lượng tinh thần từ đâu mà sinh ra? Ta có thể làm chủ hoặc thay đổi nó không?
Nhiều triết gia và tôn giáo quan niệm rằng tinh thần là một phần của vũ trụ, là sợi dây liên kết giữa con người với một thực tại cao hơn. Năng lượng tinh thần có thể được coi là một dạng năng lượng vũ trụ. Nó tồn tại trong mỗi con người như một dòng chảy nhỏ thuộc về cả dòng chảy lớn. Năng lượng tinh thần không có tiếng nói, nhưng nó là nguồn gốc tiềm ẩn của tiếng nói nội tâm. Nó chi phối và thúc đẩy ta trong lặng lẽ.
Có những động cơ sâu kín trong tâm hồn con người mà ta không hoàn toàn ý thức được. Đó là sự thúc đẩy vô hình tạo nên những ý muốn, và ta sẽ hành động theo tính cách của mình. Tính cách được tạo nên bởi những ý muốn vô thức, từ đó sẽ dẫn đến những gì mà ta theo đuổi và lựa chọn. Chúng ta luôn bị thúc đẩy để hình thành một tính cách nhất định, một “khuôn mẫu” nội tại dẫn dắt các hành động và lựa chọn, dẫn dắt chúng ta đến với kết cục mà có lẽ đã được định sẵn theo cách của vũ trụ.
Có những cơ hội và nguồn lực từ bên ngoài được trao cho ta. Nhưng ta lại không lựa chọn dựa trên lợi ích tối đa, mà thường thuận theo ý muốn vô thức. Số phận được định trước dựa trên những ý muốn vô thức và không thể nào thay đổi. Sự thúc đẩy từ vũ trụ đang làm chủ tâm trí con người, và nó không thể nào lựa chọn được ý muốn của mình.
Chúng ta thường gắn mác lẫn nhau thông qua tính cách. Đó là những lựa chọn hoặc sự thúc đẩy, từ đó cho thấy mong muốn của bản thân và người khác. Ta nhận ra rằng mong muốn không ổn định qua thời gian. Nó xuất hiện như từng đợt sóng năng lượng của biển cả vũ trụ và ta không thể kiểm soát được. Nguồn năng lượng đó luôn thay đổi bất thường. Hôm nay ta muốn một điều gì đó, nhưng ngày mai ta lại muốn điều khác. Điều đó có nghĩa là con người không bao giờ hoàn toàn giống nhau ở mọi thời điểm. Ta sẽ không thể tìm được chính mình (bản chất chân thật) trong những mong muốn. Mong muốn xuất hiện rồi lại biến mất, nhưng tồn tại một bản chất sâu xa, không thay đổi bên trong mỗi con người.
Mọi sinh vật đều là một phần của hệ sinh thái lớn. Chúng ta không thể tách rời khỏi môi trường xung quanh. Những mong muốn của chúng ta cũng không phải là sản phẩm của một cá nhân đơn lẻ mà là kết quả của sự tương tác giữa chúng ta với thế giới bên ngoài.
Một quyết định không phải chỉ bởi hoàn cảnh bên ngoài thúc đẩy, cũng không phải chỉ đến từ nơi sâu thẳm bên trong (một ý chí tách biệt), mà vì toàn thể vũ trụ bên trong và bên ngoài đã sẵn sàng (hội tụ đủ điều kiện).
Con người là một tiến trình hoạt động trong hình thức một thân xác, cái thân xác mà ta vẫn định nghĩa nó là sự sống. Và cái tiến trình đó cũng chỉ là một phần trong một tiến trình lớn hơn mà thôi. Cái lớn hơn chi phối cái nhỏ hơn. Nếu ta là một con cá trong dòng chảy, ta không thể thoát ra ngoài dòng chảy, nhưng cũng không thể thay đổi sự quyết định của dòng chảy đó. Những gì xảy ra với mỗi người là kết quả của một chuỗi sự kiện phức tạp, vượt xa tầm kiểm soát của cá nhân.
Ý tưởng về sự độc lập của cái “tôi” chỉ là một góc nhìn hạn hẹp, đó là sản phẩm đến từ sự giới hạn nhận thức của con người. Khái niệm “con người” thực chất là một phạm vi những đặc tính mà nó tự đồng hoá mình với những biểu hiện đó. Sự tồn tại của con người luôn cần gắn liền với môi trường sống của nó, con người vốn không độc lập.
Thân xác con người vốn không hoàn toàn thuộc về chính nó. Môi trường sống chi phối thân xác, nó lệ thuộc vào không khí, nhiệt độ, thức ăn, nước uống,… để tồn tại. Thân xác không độc lập và những suy nghĩ cũng thế, vậy thì cái “tôi” tách biệt là một ảo tưởng. Sự ích kỷ của cái “tôi” làm cho con người không thể hòa nhập với vũ trụ. Chỉ khi nào ta không thể vượt qua được giới hạn của bản thân, ta mới chịu nhìn vào khoảng trống thiếu sót của mình. Đó là khoảng trống vô hạn, nó có sức hút mãnh liệt thôi thúc ta khám những gì tiềm ẩn trong đó. Để khám phá khoảng trống này, con người cần vượt qua giới hạn của cái “tôi” và tìm kiếm sự kết nối với một cái gì đó lớn lao hơn.
Dòng chảy vũ trụ bao trùm và cũng tồn tại bên trong nội tại vạn vật, từ đó chi phối và kéo theo tất cả. Nhưng đa số chúng ta vẫn chấp nhặt vào tiểu tiết, và chỉ dám nghĩ trong thế giới quan của mình. Vậy nên, tâm trí không thể mở rộng để nhìn thấy cái bao quát và lớn lao hơn. Mỗi sự xuất hiện và biến mất, đến và đi đều là vì dòng chảy đó mà không bởi một nguyên nhân cụ thể nào. Đôi khi, ta phát hiện có nhiều thứ tương đồng xảy ra vào cùng một không gian và thời điểm. Đó là một sự biến chuyển lớn lao với sự tác động bao phủ lên những thứ thuộc nội vi của nó, và cái ý thức nhỏ bé trong nó thì khó mà có thể nhận ra được.
Tĩnh lặng
Tại sao ta có thể tìm thấy một sự tĩnh lặng trong tâm của sự sống năng động này, giống như mắt bão, nơi sự tĩnh lặng nằm ngay giữa tâm bão?
Sự tĩnh lặng tồn tại dường như tách biệt nhưng lại nuôi dưỡng sự sống này, đó là nguồn gốc sự sống. Sự sống chỉ là hiện tượng bên ngoài, còn điều gì đó ẩn chứa bên trong.
Có một sự tĩnh lặng đến từ sự nhận biết, cảm nhận những gì đang diễn ra. Khi ta không còn tập trung vào đối tượng của dòng suy nghĩ, mà chính dòng suy nghĩ là đối tượng của ta, thì ta đã tự đặt mình vào vị trí của chủ thể vô cùng tĩnh lặng và sáng suốt.
Các dòng suy nghĩ như các dòng năng lượng vậy. Chúng biểu hiện qua các hoạt động của tâm trí, đó là sự cố gắng, kiểm soát, kìm nén, chống đối,… Những vấn đề đến từ sự mâu thuẫn giữa hai suy nghĩ thuận và nghịch, giữa nên và không nên, giữa có thể và không thể, điều đó khiến ta trở nên bối rối. Sự tĩnh lặng đến từ việc xuôi theo những gì đang xảy ra. Đó là sự buông bỏ mọi kháng cự, mọi cố gắng kiểm soát.
Dòng năng lượng hỗn loạn thúc đẩy ta theo những chiều hướng khác nhau, chúng gây nên những mâu thuẫn. Ta bối rối và mất phương hướng vì không nhận diện được những năng lượng này, giống như sóng ngầm vô hình làm xáo trộn mặt nước tĩnh lặng. Sự thiếu nhận thức khiến những năng lượng này trở thành “kẻ thù vô hình”, chi phối hành động một cách vô thức, tạo ra vòng lặp hỗn loạn.
Việc quan sát nội tâm, cảm nhận dòng tư tưởng là hành động “soi chiếu” để nhận diện và gọi tên những năng lượng đang tồn tại. Khi chúng “hiện diện”, con người thoát khỏi trạng thái bị động, bắt đầu làm chủ tâm trí và trở nên tĩnh lặng hơn. Quan sát không phán xét giúp tách biệt “người quan sát” và “đối tượng được quan sát”, từ đó tạo khoảng cách để đưa ra lựa chọn sáng suốt. Khi nhìn rõ các xu hướng nội tại, con người không còn là nạn nhân của chúng mà trở thành “người lái đò”, chủ động hướng dòng chảy tư tưởng theo hướng cân bằng. Tỉnh thức không phải sự áp đặt hay kiểm soát cứng nhắc, mà là khả năng nhận biết và nhìn ra điểm cân bằng, từ đó đưa ra lựa chọn phù hợp.
Nếu bản thân không phải trả giá thì ta không thể nhận ra những ảo tưởng và bám chấp. Quá trình phủ nhận chúng đưa ta ngày càng gần hơn tới sự thật. Từ những thiên biến vạn hóa, ta tìm ra sự thống nhất. Từ vô vàn vướng mắc, ta tìm ra lời giải cho mọi thứ. Từ sự hỗn loạn, ta tìm ra sự tĩnh lặng.
Tĩnh lặng không phải trống rỗng. Sự trống rỗng là một sự bế tắc khi ta tìm kiếm những điểm mù. Còn sự tĩnh lặng là không gian vô hạn bao trùm mọi dòng chảy. Tĩnh lặng không đồng nghĩa với việc tách khỏi thế giới bên ngoài hay đè nén suy nghĩ, mà là tạo không gian tâm lý để lắng nghe, thấu hiểu chính mình. Cần phải phân biệt giữa “trống rỗng” và “hiện diện”, trạng thái tĩnh lặng không phải là dừng suy nghĩ và hoàn toàn “trống rỗng”, mà là cảm nhận trọn vẹn mọi suy nghĩ và cảm xúc, để chúng có thể “hiện diện”.
Tĩnh lặng là bản chất của cội nguồn, năng động là bản chất của bề mặt. Tĩnh lặng là một dạng phi năng lượng, và nó là nguồn gốc của mọi loại năng lượng khác. Cái tâm động lấy đi biết bao nhiêu năng lượng, thì trong tĩnh lặng năng lượng lại được tích tụ. Và khi đã đủ năng lượng cho mình, phần còn lại ta lan tỏa tới người khác.
Sự tĩnh lặng dễ dàng nhất là ở trong vùng an toàn, nhưng nếu bước ra khỏi đó thì bắt đầu hỗn loạn. Đây không phải sự tĩnh lặng mà ta tìm kiếm. Vậy ta phải đi đâu? Dạo chơi trong những biến thiên, ta sẽ tìm ra những gì bất biến. Bằng cách phát hiện những gì thay đổi, ta sẽ tìm ra những gì không thay đổi. Đó là nơi khởi đầu, đó là sự hoá giải cho những mâu thuẫn. Khi đào sâu vào cội nguồn vấn đề ta sẽ tìm thấy nó, ta ở lại với nó, còn những biến thiên chỉ tồn tại ở trên bề mặt.
Để đạt được trạng thái tĩnh lặng hay trống rỗng một cách tự nhiên, không có nghĩa là ta phải cố gắng ngừng suy nghĩ, hoặc phải chú tâm làm một việc gì đó để tâm không chạy lăng xăng. Bởi lẽ, mọi gợn sóng và thổn thức bên trong, một khi đã được ta nhận diện sẽ tự nhiên được hóa giải. Sự hóa giải này giúp ta thoát khỏi những vướng mắc, từ đó sự tĩnh lặng và an nhiên xuất hiện như một điều tất yếu. Dòng suy nghĩ vẫn tiếp tục trôi chảy, nhưng nó không làm xáo trộn tâm hồn ta nữa.
Tâm mà đã bị bao phủ bởi quá nhiều lớp lang khái niệm và định kiến thì chẳng bao giờ có thể nhìn sự vật, sự việc như nó vốn có, vì lăng kính đầy bụi phủ mờ nên mất đi cái cảm với hiện tại. Hễ cái tâm mà đã có tính cách thì đã có thiên vị, mà thiên vị thì không đưa ta đến sự thật. Muốn có cái tâm trong trẻo thì phải dọn dẹp cho sạch banh không còn gì cả.
Cái đã biết là giới hạn, nếu cứ vướng mắc vào cái đã biết thì chỉ luôn tự cao tự đại trong một miệng giếng, không bao giờ học được sự khiêm tốn. Cái biết thuộc về tâm, muốn đi xa hơn cái biết thì phải chịu buông tâm của mình ra. Từ cái hữu tìm đến cái vô. Từ hỗn độn tìm đến tĩnh lặng. Ta quan sát cái hữu bằng cách đặt mình vào cái vô. Khi đã hướng sự quan sát vào hỗn độn chẳng phải ta đã tự đặt mình vào tĩnh lặng rồi sao. Tâm để vào dòng chảy thì cuốn theo dòng chảy, muốn chiêm ngưỡng dòng chảy phải để tâm ra ngoài nó chứ.
Khi không còn sự để tâm, ta lại thu hoạch được điều gì đó. Càng tập trung tư tưởng ta càng bị trói buộc vào những định kiến sẵn có, và loay hoay trong những lối mòn. Đi tìm thực tại là đi tìm sự quên, ta đi tìm bằng cách không đi tìm. Cái không biết sẽ chẳng lộ diện trước một tâm trí bị vây chặt bởi ham muốn và khao khát. Cái muôn vàn bị núp bóng và thực tại trở nên vô hình, vì một đôi mắt sáng chỉ khiến ta đui mù qua những gì nó nhìn thấy.
Đọc các bài tương tự tại link sau:
Tâm và Đạo: Tôi là ai? (Phần 1)