Vô Thường
Điều gì thúc đẩy vũ trụ vận động không ngừng? Sự thúc đẩy một cái vô hạn, nếu có bất cứ sự xác định nào, nó trở thành hữu hạn, và do đó, tự phủ nhận tính toàn năng và sự tồn tại của chính nó. Theo Đạo Phật, không có một điều gì bên ngoài kiểm soát và thúc đẩy sự vận động của vũ trụ. Sự vận động và thay đổi là bản chất cố hữu của mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ, đó là tính Vô Thường của chúng.
Vũ trụ không phải một thực thể tĩnh tại, mà là dòng chảy năng lượng và vật chất liên tục biến đổi. Từ sự ra đời và cái chết của các ngôi sao, đến chu kỳ sinh diệt của muôn loài, mọi thứ đều tuân theo quy luật “thành – trụ – hoại – không” (sinh ra – tồn tại – suy tàn – tan biến). Đây là cân bằng động, nơi cái chết của một hệ thống trở thành nguyên liệu cho sự sống khác. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “yên bình”, mà là sự đối trọng giữa các lực đối lập. Cái chết là điều kiện cho sự sống mới, như lá rụng nuôi dưỡng đất để cây non mọc lên. Cân bằng của vũ trụ không phải là trạng thái “hoàn hảo” để giữ gìn, mà là quá trình liên tục tự điều chỉnh thông qua sinh diệt.
Duyên Khởi
Chúng ta phải công nhận sự phức tạp không thể thu gọn của vũ trụ vào một nguyên nhân duy nhất. Không tồn tại một “nguồn gốc đầu tiên” cố định, không có một điểm gốc hay điểm dừng thực sự. Tất cả biểu hiện ở dạng năng lượng. Điều đó tạo nên một dòng chảy vô tận, không có điểm bắt đầu hay kết thúc.
Ta không thể tìm đến ngọn nguồn sau cùng vì vũ trụ không có điểm đầu và điểm cuối. Chúng ta thường tư duy theo đường thẳng (tuyến tính: A sinh ra B, B sinh ra C). Nhưng thực tại, như bạn thấy, là những vòng lặp (phi tuyến tính).
Con gà hay quả trứng có trước? Câu hỏi này vô nghĩa trong một vòng tròn. Việc truy tìm “nguyên nhân đầu tiên” là nỗ lực của tư duy tuyến tính áp đặt lên một “thực tại vòng tròn”. Khi chấp nhận vòng lặp, tâm trí ngừng chạy đua về quá khứ hay tương lai. Nó dừng lại ở cái đang là (hiện tại).
Đức Phật phủ nhận mọi thuyết sáng thế hay duy vật, phá bỏ tà kiến về “khởi nguyên”, hướng đến nhận thức về tính Duyên sinh, vạn vật tồn tại nhờ tập hợp của các Duyên (điều kiện), không có tự ngã. Duyên Khởi nghĩa là tất cả những hiện tượng thế gian khởi lên là do nhiều Duyên (điều kiện) mà được thành lập.
Đạo Phật không nhìn nhận vũ trụ bị kiểm soát bởi một thực thể duy nhất, hay một ý chí tối thượng theo cách các tôn giáo độc thần mô tả. Đức Phật khai thị giáo lý Duyên Khởi, giải thích rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều phát sinh và tồn tại dựa trên sự tương thuộc lẫn nhau. Không có bất kỳ điều gì tự mình sinh ra và tồn tại độc lập, tách biệt khỏi các yếu tố khác.
Tất cả mọi thứ đều có mối liên hệ, nhưng không có sự sắp đặt nào mà tự vận hành dựa trên sự tác động qua lại lẫn nhau. Đó là những chuỗi Nhân Quả móc nối với nhau. Sự thay đổi của hệ thống này sẽ dẫn đến sự phá vỡ trật tự của hệ thống khác, vì tất cả đều có mối liên kết, chỉ là mối liên kết ở gần sẽ biểu hiện rõ ràng và trực tiếp hơn.
“Mối quan hệ giữa tất cả chúng ta giống như một cái cây lớn với hàng ngàn chiếc lá trên đó. Những chiếc lá trên cùng một cành cây với ta sẽ đặc biệt gần gũi. Chúng ta thậm chí có thể cùng chia sẻ những trải nghiệm về ý thức với nhau. Có thể có ba, bốn hoặc năm lá trên cành cây của ta. Ta cũng có mối liên quan mật thiết với những chiếc lá ở cành cây bên cạnh. Chúng ta đều thuộc cùng một cành to. Họ ở gần với ta, nhưng không gần với những chiếc lá khác trên cành cây của ta. Tương tự như vậy, khi mở rộng ra xa hơn dọc theo thân cây, ta còn liên quan đến những chiếc lá hay những ý thức khác, nhưng không chặt chẽ như những người ở gần ta. Chúng ta đều là những bộ phận trên cùng một thân cây. Chúng ta có thể chia sẻ những trải nghiệm với nhau. Chúng ta biết nhau, nhưng những người trên cùng một cành cây với ta là gần gũi nhất.
Có nhiều cây khác trong khu rừng xinh đẹp này. Mỗi cây được kết nối với những cây khác thông qua hệ thống rễ nằm sâu dưới lòng đất. Vì vậy, dù có thể có một chiếc lá nằm trên một thân cây phía xa có vẻ rất khác biệt và xa cách đối với ta, ta vẫn có sự kết nối với chiếc lá đó. Ta có thể kết nối với tất cả những chiếc lá, nhưng ta được kết nối chặt chẽ nhất với những chiếc lá ở trên cây của ta. Và càng kết nối mật thiết hơn với những người trên cùng một nhánh. Và gần như là một với những chiếc lá trên cùng một cành với mình.”
(Hành trình về Phương Đông – Baird T. Spalding)
Nhận thức của chúng ta về vũ trụ thường bị giới hạn trong phạm vi cá nhân, chỉ nhìn thấy những mảnh vỡ rời rạc. Do đó, một ảo tưởng nảy sinh rằng có những thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau và tách rời khỏi chính chúng ta. Trong mạng lưới Duyên Khởi, mỗi cái “tôi” là một nút thắt tạm thời, và ý thức con người cũng là một phần trong đó, không có thực thể kiểm soát riêng biệt.
Ví dụ: Một cây lúa sinh ra từ các Duyên: hạt giống, đất, nước, ánh sáng.
Đạo Phật có câu:
“Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”
Nghĩa là:
“Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc,
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”
Câu kinh chỉ ra sự tương quan, tương hỗ giữa Sắc và Không.
– Sắc: Chỉ mọi hiện tượng vật chất, hình tướng có thể cảm nhận bằng giác quan.
– Không: Chẳng phải là “trống rỗng” theo nghĩa hư vô, mà là sự vắng mặt của tự tính độc lập. Mọi sự vật đều tồn tại nhờ Duyên sinh, không có bản chất cố định.
Ví dụ:
– Sóng (Sắc) là biểu hiện của nước (Không). Sóng không khác nước, nước không khác sóng. Khi sóng tan, nước vẫn tồn tại. Sự “mất đi” của sóng chỉ là trở về với bản chất nguyên thủy.
– Một đám mây (Sắc) không tồn tại độc lập, mà là sự kết hợp của hơi nước, nhiệt độ, áp suất,… Khi các điều kiện này thay đổi, đám mây tan biến (Không). Đám mây và sự tan biến của nó chỉ là hai trạng thái của một quá trình duyên sinh.
– Một cái bàn (Sắc) chỉ là tên gọi cho sự kết hợp của gỗ, đinh, công thợ,… Nếu tách rời các yếu tố này, “bàn” không còn tồn tại (Không).
“Sắc tức là Không”: Hình tướng, vật chất chính là tánh Không khi được nhìn nhận ở cấp độ bản chất sâu xa nhất. Sự “có mặt” của Sắc chỉ là sự biểu hiện tạm thời của tánh Không.
“Không tức là Sắc”: Đồng thời, tánh Không chính là nền tảng cho sự biểu hiện của mọi hình tướng. Nếu chẳng có tánh Không, thì chẳng có sự sinh khởi và tồn tại của bất kỳ hình tướng nào.
Nhân Quả
Đạo Phật nhìn thế giới như một dòng chảy mênh mông, gồm những sự kiện nối kết lại và cùng dự phần tác động lên nhau. Và khi nhìn vào tiểu tiết, ta thấy những phân đoạn của nguyên nhân và kết quả nối đuôi nhau tạo thành những vòng lặp Nhân Quả vô tận.
Vạn vật không thể chối bỏ, chạy trốn nhau nếu đó là một chuỗi các kết nối được gắn kết. Một nghiệp của cá nhân A sẽ tác động “rung chuyển” cả mạng lưới, tạo thành môi trường chung ảnh hưởng đến B, C, D,…
Đâu đó giữa vòng luật pháp, con người có thể lợi dụng kẽ hở luật pháp (lách luật) nhưng dưới con mắt của đạo lý Nhân Quả, không ai có thể khoét vách, đào tường, vượt khỏi tầm kiểm soát của luân lý. Chúng ta không thể hoàn toàn xóa bỏ hoặc thay đổi Nghiệp đã gieo. Dù có thể tạo Nghiệp mới tốt hơn để cải thiện tương lai, nhưng những Quả đã chín muồi thì khó tránh khỏi. Nhân Quả là quá trình đó, nó lặp đi lặp lại không hồi kết.
(Nghiệp: tiếng Phạn là Karma, có nghĩa là “làm hay hành động”. Nghiệp là hành động chứ không phải là kết quả của hành động như chúng ta thường hiểu lầm.)
Nhân là chủ thể, Nghiệp là hành động của chủ thể, Nghiệp nào thì “góp phần” dẫn đến Quả đó. Tại sao chỉ là “góp phần”? Vì một kết quả không chỉ đến từ Nghiệp của một cá nhân, mà còn do cả Nghiệp từ những cá nhân khác, nên tiến trình từ Nhân đến Quả thường không phải là đường thẳng. Tiến trình Nhân Quả rất phức tạp, có khi nhanh, có khi chậm, thường thì thành Quả nhưng cũng có khi bị tiêu trừ không thành Quả.
“Đất sét là cần thiết để làm ra cái bình, nhưng bản thân một mình đất sét thì không đủ để làm ra cái bình. Nếu không có nước (để nhào nặn), không có bàn xoay, thì không làm ra cái bình được. Không có ý định làm cái bình thì ngay cả có đủ những điều kiện cần nói trên cũng không có cái bình. Tất cả những yếu tố trên đều phải có đủ mới làm ra được cái bình. Nếu có một yếu tố nào không có, thì chắc chắn sẽ không có cái bình được làm ra. Vì vậy, sẽ không chính xác khi nói rằng đất sét là nguyên nhân làm ra cái bình. Dù có một cánh đồng đất sét ngoài kia, nhưng không liên quan gì đến sự ra đời của những cái bình. Người ta thậm chí phải đưa thêm rất nhiều yếu tố tác nhân khác mới làm ra gạch, ngói, vách nhà,… Cách diễn đạt chính xác nhất là: nhờ vào (tùy thuộc vào, nhờ có, do có) đất sét, cái bình được làm ra.
Ngay cả đã đủ các yếu tố tác nhân là đất sét, nước, bàn xoay,… và cả ý định làm cái bình, nhưng trong một quá trình phức hợp, chưa chắc đã làm ra được cái bình. Ví dụ, trục bàn xoay bị ẩm ướt do thời tiết và tạo ma sát thường xuyên làm ảnh hưởng đến tốc độ vòng tua của bàn xoay, người thợ cuối cùng không thể làm ra cái bình cao để cắm hoa, mà chỉ có thể làm ra cái chén thấp. Nếu trục bàn xoay bình thường, thuận duyên, thì cái bình đã được làm ra. Nhưng trục bàn xoay bỗng nhiên không được bình thường, nghịch duyên, nên chỉ có thể làm ra cái chén. Điều kiện trục bàn xoay là nghịch duyên đối với cái bình và lại là thuận duyên đối với cái chén, mặc dù ý chí của người thực hiện là làm ra cái bình.
Cũng với lý nhân duyên này mà một người trên bước đường tu tập gặp phải những nghịch duyên, chướng duyên làm cho mục tiêu không thể đạt được, nếu hiểu được quy luật tự nhiên này thì không thoái chí hay nản lòng, mà nên quán chiếu thêm về nhân duyên hay nghiệp báo.”
Nhân Quả không phải là một bộ luật được ai đó viết ra để trừng phạt. Nó là một cơ chế của tâm linh, luật chính là mạng lưới. Không có người tạo ra luật, mạng lưới Nhân Quả không cần một đấng sáng tạo hay một người điều khiển vĩ đại. Mọi thứ được định hình bởi các mối quan hệ chứ không phải bởi các thực thể có sẵn.
Dưới góc nhìn Nhân Quả, không ai đóng vai quan tòa hay cảnh sát. Chính hành động đã chứa sẵn mầm mống hậu quả. Khi mũi tên đã rời khỏi dây cung (Quả đã chín), ta không thể bắt nó quay lại. Ta không thể xóa bỏ quá khứ. Sự giác ngộ (thoát khỏi luân hồi) không giúp cắt đứt khỏi Nhân Quả (vì đó là quy luật vũ trụ), mà là trở thành một người quan sát thấu suốt, tâm không còn dính mắc trong dòng chảy Nhân Quả mình phải trải qua.
Nếu mọi thứ đều được tạo ra (hoặc xảy ra) bởi sự phụ thuộc lẫn nhau (Duyên Khởi), thì không có gì xuất phát từ chính bản thân nó (không có gì có tự tính). Mọi thứ hiện hữu chỉ là những sự kiện được dệt nên trong mạng lưới các điều kiện.
Nếu cái “tôi” chỉ là một tập hợp các Duyên (Vô Ngã), thì Quả cũng chỉ là một sự kiện của các Duyên, chứ không của riêng cá nhân đang tồn tại này. Tất cả đều là Duyên nên không có “hành động cá nhân”. Nếu không có gì tồn tại độc lập, thì không hành động nào là thuần túy cá nhân. Đây chính là “Nghiệp tập thể”, và kết quả của nó cũng là Quả tập thể. Sự biến động ở bất kỳ hệ thống nào (kinh tế, môi trường, chính trị) đều là sự biểu hiện của “Nghiệp tập thể”.
Tất cả chúng ta đang đi trên cùng một chiếc thuyền (thế giới, đất nước), một kẻ đục thuyền là hành động cá nhân, nhưng hậu quả (thuyền chìm) lại là tập thể cùng phải gánh chịu. Điều này thể hiện “trách nhiệm đạo đức vô tận”. Một hành động xấu xa hay thiện lành của cá nhân đều mang đến kết quả cho tập thể. Sự bình an của tôi phụ thuộc vào sự tỉnh thức của người khác, và sự bình an của người khác phụ thuộc vào sự tỉnh thức của tôi.
Nếu mọi thứ đều kết nối, thì sự chuyển hóa bên trong tâm thức mỗi người chính là Nhân quan trọng nhất để tạo ra Quả bình an cho toàn thể. Một sự thay đổi nhỏ trong tâm thức ngay lúc này cũng đang rung động khắp mạng lưới Nhân Quả.
Ý thức và vật chất
Vật chất không có ý nghĩa cố định, ý nghĩa và giá trị của nó được gán bởi ý thức. Vật chất là sự phản chiếu của ý thức qua cách ta cảm nhận và khái niệm hóa nó.
Ngược lại, ý thức đồng thời bị chi phối bởi cấu trúc vật chất (hệ thần kinh). Ý thức của chúng ta, ít nhất là một phần, nảy sinh và phụ thuộc vào sự tương tác của vật chất (cơ thể, não bộ, giác quan với môi trường).
Từ vật chất đến ý thức, môi trường sống kích hoạt hạt giống Nghiệp trong tâm thức (ví dụ: sinh vào bối cảnh chiến tranh sinh ra sân hận). Từ ý thức đến vật chất, Nghiệp lực trong tâm thức hình thành các “cảnh giới” (ví dụ: địa ngục, phàm trần, thiên giới – các cách gọi này tượng trưng cho các trạng thái của ý thức).
Ý thức thay đổi cách cảm nhận vật chất, sự tương tác của vật chất với vật chất tạo ra trải nghiệm ý thức. Đó là mối quan hệ hai chiều mà không có chiều nào là nguồn gốc. Đó không phải là mối quan hệ Nhân Quả mà là sự đồng khởi, nơi cả hai cùng xuất hiện và ảnh hưởng lẫn nhau. Như thiền sư Dogen giảng: “Không phải tâm tạo ra cảnh, cũng không phải cảnh tạo ra tâm, mà là tâm/cảnh cùng một lúc hiện tiền”.
Đó không phải là ý thức gây ra vật chất, HOẶC, vật chất gây ra ý thức, mà là sự phản hồi đồng thời không thể tách rời. Đó là bản chất phi nhị nguyên của thực tại, hiểu điều này ta không còn phải chọn phe. Không có “ý thức thuần túy” đứng trên vật chất, cũng không có “vật chất thuần túy” tạo ra ý thức. Giác ngộ không phải là “hiểu được nguyên nhân”, mà là thấy rõ sự hòa hợp này. Khi đó, ý thức và vật chất không còn là hai thứ để tranh luận, chúng chỉ là tên gọi tạm bợ cho một thực tại không thể chia cắt.
Sự giải thoát của ý thức không làm biến mất thực tại vật chất. Thay vào đó, nó giải phóng thực tại vật chất khỏi những ý niệm và phiền não mà ta đã gán lên nó. Trong trạng thái giải thoát, vật chất vẫn tồn tại, nhưng không còn bị “bao phủ” bởi tâm phân biệt. Đây không phải là sự phủ nhận thế giới quan, mà là “cứu chuộc” nó. Thế giới không thay đổi, nhưng cách ta nhận thức về nó đã thay đổi hoàn toàn.
Vật chất không còn là “vật cản” hay “đối tượng để chiếm hữu”. Trước giải thoát, cái ly là “cái ly của tôi”, “cái ly đẹp/xấu”, “cái ly để uống nước”. Nó tồn tại như một đối tượng tách biệt, nó phục vụ cho nhu cầu và đánh giá của cái “tôi”. Sau giải thoát, chiếc ly được nhìn nhận trong bản chất Duyên Khởi là sự kết hợp của đất, nước, lửa (nung), không khí, công lao người thợ gốm, người vận chuyển,… Nó không còn tự tính cố định là cái “ly” mà ta gán cho nó. Người giác ngộ thấy được cả vũ trụ trong cái ly đó và không còn ý niệm sở hữu.
Trải nghiệm về màu sắc, hình khối, âm thanh không còn bị lọc qua quá khứ (dính liền với ký ức, phản xạ hay thói quen cũ). Đây là sự “thanh tịnh hóa các căn”. Một người giác ngộ nhìn thấy lá vàng chỉ là lá vàng, không gắn với ký ức, không phán xét “đẹp/xấu”, không sợ hãi “mùa thu tàn”. Âm thanh không còn là “tiếng mưa buồn”, mà là sự rung động thuần túy của không khí và nước.
Thời gian không có tự tính, nó chỉ tồn tại như quy ước của tâm thức. Trong thiền định, một hơi thở có thể kéo dài vô tận, không phải vì thời gian “chậm lại”, mà vì ý thức không còn đếm thời gian. Quá khứ (ký ức) và tương lai (lo âu) không còn chi phối. Ta sống trọn vẹn trong một khoảnh khắc hiện tại giãn nở vô tận.
Chúng ta không còn sống trong thời gian tuyến tính (quá khứ – hiện tại – tương lai) và không gian phân chia (cơ thể/tâm trí, ta/người), mối tương tác giữa “bên trong” và “bên ngoài” tan biến. Cơ thể không còn là cái “tôi”, mà là dòng chảy của Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Thiên nhiên không còn là “bên ngoài”, mà là phần mở rộng của tâm. Không gian và thời gian trở thành một trường năng lượng sống động, một mạng lưới liên kết mọi thứ.
Ta cảm nhận được sự thống nhất, ta là không khí ta thở, là cảnh vật ta nhìn thấy, không còn sự tách biệt. Đây là trải nghiệm “nhất thể”. Ta không còn nhìn vào vũ trụ, mà là vũ trụ đang trải nghiệm chính nó.
Ý thức thuần khiết
Mọi thứ đều có lý do. Khi truy tìm nguồn gốc của mọi lý do, ta sẽ đến một “khởi đầu nguyên sơ”, nơi không còn sự phân chia giữa các khái niệm, và ngôn ngữ cũng mất đi khả năng diễn đạt. Đây có thể là một trạng thái trước khi tư duy và lý trí của con người hình thành. Con người có xu hướng lý giải mọi thứ, nhưng những lý do này không tuyệt đối. Chúng phụ thuộc vào góc nhìn, hoàn cảnh, và không có lý do nào là duy nhất hay hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Chúng ta luôn cố gắng neo giữ mọi thứ bằng lý do, nhưng mọi lý do đều chỉ là những điểm dừng tạm thời. Chân lý không nằm trong những lý do cụ thể mà con người có thể tìm kiếm hay diễn tả. Nó là một trạng thái vượt ra ngoài sự lý giải thông thường, không còn cần đến lý do hay nguyên nhân.
Những gì vượt quá khả năng nhận thức của cơ thể vật lý, đều nằm ngoài phạm vi mà chúng ta có thể nắm bắt. Điều này dẫn đến sự tồn tại một ý thức giới hạn của thân tâm. Những giới hạn này tạo ra các ranh giới mà ta không dám bước qua, đó là những nỗi sợ mơ hồ.
Cơ thể chính là ranh giới mà thông qua đó một phần của “ý thức vũ trụ” được biểu hiện. Mọi sự chia cắt hay phân mảnh đều tạo ra những ranh giới hữu hạn, qua đó một khuôn mẫu được định hình và gọi tên. “Ý thức cá nhân” chỉ là một phần nhỏ của “ý thức vũ trụ”, và cơ thể là phương tiện để phần ý thức đó tương tác với thế giới vật chất. Cơ thể đóng vai trò như bộ lọc, chỉ cho phép một phần thông tin từ vũ trụ đi vào nhận thức. Mắt người chỉ thấy dải quang phổ hẹp, tai chỉ nghe âm thanh trong khoảng tần số nhất định. Cấu trúc sinh học của cơ thể quyết định cách ta cảm nhận thời gian, không gian, và bản thân sự tồn tại. Một con bướm trải nghiệm thế giới khác con người vì cơ thể chúng có giác quan và hệ thần kinh khác biệt.
Sợ hãi là biểu hiện của ý thức giới hạn. Sợ hãi là rào cản ngăn ta làm bất cứ điều gì đáng làm. Khi mà vẫn còn tự đồng hóa trong những ranh giới của tầm nhìn cá nhân, ta sẽ không bao giờ hết sợ hãi. Nhận ra mình không chỉ là “ý thức thân tâm” (một giọt nước) mà vốn thuộc về cái “ý thức toàn thể” (đại dương). Ý thức vô hạn đó không bị ràng buộc bởi bất cứ ranh giới và rào cản nào khiến nó sợ hãi cả. Ý thức vô hạn “không còn khả năng” nhận thức sự hữu hạn, vì với tầm nhìn vô hạn đã không còn sự phân biệt, không còn gắn liền với các hình tướng, và ngay cả chính nó dường như chẳng tồn tại.
Trong giới hạn của cá nhân, “ý thức thân tâm” khẳng định muôn vàn hình tướng và sự tách biệt. Còn cái “ý thức toàn thể” với nhận thức phá vỡ mọi ranh giới, đã không còn giới hạn và tính phân biệt, không còn quy ước, khuôn khổ và định danh nào, một trạng thái “không” vô cùng tĩnh lặng và không còn âm thanh của sợ hãi, không còn nhìn mọi thứ theo một góc cạnh nào cả, trở về với bản chất nguyên sơ là một thể “ý thức thuần khiết” không bị ràng buộc bởi các giới hạn, không còn định kiến hay sợ hãi.
“Ý thức thuần khiết” như là ánh nắng. Nhưng khi ánh nắng biểu hiện thông qua môi trường, nó bị đồng hóa bởi những gì nó chiếu vào.
– Khi mặt trời mọc và một tia nắng đi vào qua cửa sổ, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên bức tường phía tây, và tia nắng mang dáng dấp của bức tường.
– Nếu không có bức tường phía tây, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên mặt đất, và tia nắng trở thành mặt đất.
– Nếu không có mặt đất, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Lên mặt nước, và tia nắng mềm mại như mặt nước.
– Nếu không có nước, nó sẽ chiếu xuống đâu?
– Nó không chiếu xuống đâu cả.
Cũng như vậy, nơi nào không còn sự bám víu vào thân và tâm thì “ý thức thuần khiết” không phóng chiếu vào đó, nó là chính nó và không còn sự đồng hóa nào cả.
Đây là quá trình phá vỡ ảo tưởng của “ý thức thân tâm”, hướng đến một sự chuyển dịch từ cảm giác hạn chế sang một ý thức rộng mở và kết nối hơn. Không còn là một giọt nước riêng biệt mà nhận ra mình là đại dương rộng lớn và không giới hạn. Đây không phải là sự trống rỗng hư vô mà là khám phá một nền tảng sâu sắc hơn, giải phóng hơn của sự tồn tại ngoài khung của bản ngã được tạo dựng.
Ta không cần tìm kiếm sự thống nhất, ta chính là sự thống nhất đang tạm quên mình để đóng vai kẻ đi tìm. Thiền định hay mọi sự dẫn dắt nhằm hướng đến trải nghiệm “tan biến ranh giới cá nhân”, cảm nhận sự hợp nhất với vũ trụ.
Nhận thức rộng hơn, hay còn gọi là “ý thức toàn thể” không phải là mở rộng bộ não thành “siêu máy tính” và nắm bắt mọi chi tiết vũ trụ, mà là sự sụp đổ của lăng kính nhị nguyên. Nó là việc thấy cơ chế vận hành chứ không phải nắm giữ dữ liệu. Nó không đưa ta đến một “giới hạn rộng hơn”, mà là một sự “trống rỗng đầy đủ”, nơi mà mọi tiềm năng đều có thể phát sinh. Nó không phải là sở hữu tri thức vô hạn, mà là trở thành khoảng không mà trong đó vũ trụ tự biểu hiện, như mặt gương phản chiếu mọi vật mà không nắm giữ vật nào.
Nhận thức rộng hơn không phải là việc gom góp các mảnh kiến thức theo cách thông thường, mà là nhận biết mối liên kết nội tại của tất cả hiện tượng. Khi mà sự phân biệt ranh giới giữa “tôi” và “thế giới” dần tan biến, thì có một sự nhận thức bao trùm tất cả mà không cần cố gắng. Thay vì chỉ thấy mặt ngoài của sự vật, nhận thức rộng hơn có thể “đọc” được chiều sâu, nguồn gốc, và mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong trạng thái này, các mốc thời gian và cấp độ hiện hữu không còn là chỗ chứa riêng biệt, mà hòa quyện thành một dòng chảy liên tục của tri thức và kinh nghiệm.
Thế giới từ tâm thức
Mắt giới hạn chỉ nhìn thấy vũ trụ giới hạn, tai giới hạn chỉ nghe được vũ trụ giới hạn. Chủ thể giới hạn chỉ nhìn thấy đối tượng giới hạn. Thế giới phong phú ta đang trải nghiệm được tạo nên từ sự giới hạn tâm trí.
Những gì vượt quá ngưỡng nhận thức, dù quá lớn hay quá nhỏ, đều nằm ngoài phạm vi tồn tại mà chúng ta có thể nắm bắt. Những giới hạn này tạo ra những “sự vật” riêng biệt, và sự đan xen của những “khoảng trống” tách biệt chúng. Với nhận thức giới hạn đó mà mọi vật tồn tại trong thế giới con người. Những khoảng trống này không hư vô tuyệt đối, đó chỉ là những khía cạnh của thực tại mà nhận thức giới hạn chưa thể vươn tới.
Sự giới hạn trong tâm thức nảy sinh cơ chế so sánh và phân biệt. Mọi sự bất định xảy ra do tâm thức giới hạn. Tâm thức giới hạn này phân chia thế giới thành “có” và “không”, tạo ra ảo giác về một thực tại chia cắt và thay đổi. Nhận ra sự thật để không còn đồng nhất với những biểu hiện tạm thời của tâm thức, ta sẽ trở về trạng thái tĩnh lặng vốn có. Thực tại tĩnh lặng vô hạn và không phân biệt, nhưng không phải trống rỗng tuyệt đối, điều tôi muốn ám chỉ là sự liên kết của toàn thể. Bản chất thực tại là một tổng thể im lìm không lay chuyển, vượt ngoài mọi đối đãi nhị nguyên.
Từ “ý thức toàn thể” tự phân thân thành các mảnh “ý thức cá nhân”, chúng ta đặt câu hỏi căn nguyên về động lực của sự tự phân thân này? Câu hỏi này giống như hỏi “tại sao nước lại sóng?” vậy. Sự “tự chia cắt” không phải hành động có chủ ý như con người cắt bánh, mà là đặc tính tự nhiên như mặt biển sinh sóng. Chúng ta tìm kiếm sự hòa giải giữa tính mục đích và tính tự nhiên trong vũ trụ. Chính giới hạn mới tạo điều kiện cho vô hạn được trải nghiệm. Con người tìm thấy khổ đau và cũng tìm thấy ý nghĩa trong những giới hạn của mình. “Ý thức toàn thể” như ánh sáng, chỉ “thấy mình” khi phản chiếu qua vật cản (giới hạn của ý thức cá nhân). Ta không thấy không khí, nhưng thấy nó khi thành bong bóng nước.
“Ý thức toàn thể” tự chia cắt chính nó tạo ra thực tại phân mảnh, đó là bản chất của thực tại vốn đã chia cắt và từ sự chia cắt đó tạo ra “ý thức cá nhân”. Ở đây, ý thức toàn thể và ý thức cá nhân vốn là một, nó tự chia cắt và tự định nghĩa các mảnh ghép đó. Sự chia cắt đó xuất phát từ bản chất tự động, sáng tạo và tự biểu hiện. Sự phân mảnh có thể không phải là một “hành động” có chủ ý khởi đầu, mà là một khía cạnh không thể tách rời của chính thực tại.
“Ý thức toàn thể” vốn là sự thống nhất và vô hạn, lại “muốn” biết chính nó thông qua việc thể hiện ra ngoài sự đa dạng. Để tự nó có thể nhìn nhận và trải nghiệm bản thân, nó cần tự chia rẽ thành các mảnh nhất định. Quá trình tự chia cắt này giống như một vũ điệu sáng tạo, trong đó, nguồn gốc duy nhất không biến mất mà lại ẩn chứa trong mọi mảnh vỡ, trong mọi biểu hiện của “ý thức cá nhân”.
Sự chia cắt cũng là cách mà “ý thức toàn thể” trải nghiệm bản thân dưới hình thức hữu hạn và có thể định nghĩa. Nếu không có sự khác biệt, nó khó mà có động lực nhận diện chính mình một cách đa chiều. Chính nhờ vào sự phân mảnh, các khía cạnh của thực tại mới có thể được “đặt ra” các mốc, từ đó tạo thành một hệ thống nhận thức, dù giới hạn nhưng cho phép ta hiểu và so sánh.
Thực tại không phải là một khối đồng nhất bất biến, nó chứa đựng vô vàn hình thái, màu sắc và dạng thức. Sự chia cắt cho phép sự đa dạng này được thể hiện. Chính điều đó làm cho mỗi “mảnh vỡ” của thực tại đều mang một giá trị riêng, góp phần vào bức tranh toàn thể của ý thức.
“Chúng ta chỉ quan tâm đến những món trang sức bằng vàng, mà không quan tâm đến bản chất của chúng đều chỉ là vàng. Giữa những món trang sức khác nhau không hề có liên hệ nhân quả. Khi ta nấu chảy một món trang sức để làm thành món khác, không hề có liên hệ nhân quả giữa hai món. Yếu tố chung là vàng, nhưng ta không thể nói vàng là nguyên nhân. Vàng không thể được gọi là nguyên nhân, vì tự thân vàng chẳng tạo ra món trang sức nào. Nó được phản chiếu trong tâm như tên gọi và hình dáng riêng của món trang sức, nhưng tất cả đều là vàng. Cũng cách đó, thực tại làm cho mọi vật khả hữu, nhưng không có gì làm cho một vật như nó là, danh xưng và hình tướng của nó từ thực tại mà ra.”
– Osho –
Các hành giả trước đây thường dùng phương pháp quán tưởng (hình dung hoặc tưởng tượng) sự vật thành một hình tướng khác, để phá vỡ chấp trước về sự vật. Ví dụ, việc quán tưởng nước thành sữa không nhằm mục đích biến nước thành sữa một cách vật lý (như ảo thuật). Thay vào đó, nó là một thực hành để hành giả nhận ra rằng nước không phải là một thực thể bất biến. Hành vi này cũng giúp hành giả vượt qua sự chấp trước vào “những gì đang hiện hữu” và nhìn thấy tiềm năng của sự chuyển hóa. Nhưng chúng ta thường hiểu những ẩn dụ này theo nghĩa đen và tin vào những điều thần thông.
Mọi ý nghĩa không phải là một kiểu hạt nhân hay bản chất ở bên trong sự vật, đúng hơn, ý nghĩa luôn nằm ngoài sự vật. Ý nghĩa luôn là thuộc tính được “gán” vào sự vật bởi tinh thần của con người, chứ không phải là được chứa đựng trong sự vật.
Không có ranh giới tuyệt đối giữa “tôi” và “thế giới”, cả hai đều thuộc về một thực tại vật chất chung. Những cảm giác của con người với thế giới là vật chất tiếp xúc với vật chất. Chủ thể và đối tượng cũng chỉ là các mô hình khác nhau của vật chất. Sự tiếp xúc giữa chủ thể và đối tượng tạo nên rung động. Ký ức là biểu hiện của những tiếp xúc ấy. Ký ức là một dạng phi vật chất sinh ra từ sự tiếp xúc vật chất. Chúng không phải thứ bên ngoài đưa vào, và chúng cũng không phản ánh đúng đối tượng, vì đối tượng được “vẽ” bởi mức độ rung động của chủ thể.
Khi mắt nhìn hoa (đối tượng), não bộ (chủ thể) xử lý thông tin và tạo ra hình ảnh “hoa” trong ý thức. Ký ức không phải bản ghi hoàn hảo của thực tại, mà là sự tái cấu trúc dựa trên trải nghiệm chủ quan. Vì vậy, cái mà ta thấy là đối tượng lại không phản ánh đúng bản chất của nó.
Ý thức không tồn tại như ta tưởng mà là một “câu chuyện” được dàn dựng. Nó là sản phẩm của quá trình tương tác giữa chủ thể và đối tượng, dẫn đến ảo tưởng về một cái “tôi” riêng biệt và một thế giới bên ngoài tách rời. Các dạng tồn tại phi vật chất (như ký ức, ý thức) không chỉ xuất hiện qua sự tiếp xúc của con người, mà còn tồn tại khắp vũ trụ, từ những mô hình vật chất khác. Ý thức có thể hiện diện ở nhiều cấp độ khác nhau, không chỉ giới hạn ở con người.
Hữu hình và vô hình
Chủ thể đi tìm chính mình chỉ thấy một bản chất hư vô. Ta luôn tự hỏi, ai đang suy nghĩ ý tưởng này? Ta truy tìm mãi, chỉ thấy khoảng trống không chủ thể. Ý thức là một sự tự nhận thức. Nhưng ý thức thì không thể nhận biết được chính nó, vì sự nhận biết chỉ xảy ra khi có sự tách biệt chủ thể và đối tượng. Cũng giống như mắt không thể nhìn thấy mắt, mũi không thể biết mùi của mũi, miệng không thể biết vị của miệng,…
Mối quan hệ giữa chủ thể quan sát (vô hình) và đối tượng được quan sát (hữu hình), cả hai thực chất là một thể thống nhất bị phân ly bởi hành động nhận thức. Phần vô hình chính là phần hữu hình đang quan sát, phần hữu hình chính là phần vô hình được quan sát.
Bởi chủ thể không thể tự quan sát chính mình theo cách đối tượng được quan sát, nên nó luôn mang tính “vô hình” trong mối quan hệ này. Còn đối tượng, chỉ khi được đưa vào quá trình quan sát bởi chủ thể, nó mới hiện lên, dù chỉ có “vẻ ngoài” của nó.
Chủ thể và đối tượng, chúng có thể quan sát lẫn nhau, nhưng không thể quan sát chính mình. Ta chỉ có thể quan sát bản thân qua “tấm gương xã hội”. Điều đó ngụ ý rằng sự hiện diện của bản thân trong ý thức luôn cần được phản chiếu qua những đối tượng bên ngoài. Cái “tôi” cần “cái tôi khác” để tự nhận diện. Để làm vậy, ta phải có niềm tin nơi người khác. Niềm tin bắt nguồn từ sự thấu hiểu và đồng cảm, ta nhìn thấy chính mình trong họ, đó là sự tương đồng trong tần số. Sự tương đồng tần số mới tạo ra điểm dừng để nhận biết được nhau.
Chủ thể đang quan sát không nhìn thấy chính nó nên nó vô hình. Đối tượng chỉ hữu hình trong sự quan sát bên ngoài nó, bản thân nó cũng vô hình với chính nó. Chúng cùng một bản chất, nhưng để mô tả sự quan sát phải “tách” chúng ra để có thể định nghĩa. Ta buộc phải dùng ngôn ngữ nhị nguyên để mô tả thực tại phi nhị nguyên. Sự tách biệt giữa chủ thể và đối tượng chỉ là trò chơi ngôn ngữ của ý thức vũ trụ để trải nghiệm chính mình. Tự thân sự vật vô hình, một hòn đá không biết mình là “đá”, khái niệm ấy chỉ tồn tại trong ý thức sinh vật.
Vật chất chỉ “hiện hình” khi bị ý thức chiếu vào. Như Schrodinger nói: “Vật chất chỉ là sóng tiềm năng trước khi bị quan sát”. Tâm trí tưởng tượng có cái “tôi” riêng biệt quan sát “thế giới bên ngoài”. Thực chất, chủ thể là dòng chảy ý thức không có cốt lõi cố định, đối tượng là cấu trúc thông tin do ý thức giải mã.
Vật lý lượng tử đã chỉ ra rằng, hạt cơ bản không phải “vật thể”, mà là xác suất năng lượng, nên thực ra, “vật chất” cũng là ảo ảnh của năng lượng. Vũ trụ không có “chất rắn”, chỉ có “sóng rung”. Đây là hành trình đi từ thế giới hiện tượng bên ngoài vào đến bản chất năng lượng bên trong, và nhận ra rằng chúng là một.
Suy nghĩ và tinh thần
Suy nghĩ của chúng ta không đơn thuần chỉ là những ý tưởng thoáng qua. Chúng liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một dòng chảy vô tận. Những suy nghĩ giống như những con sóng trên một dòng sông. Mỗi con sóng là một ý nghĩ, một cảm xúc. Những con sóng này nối tiếp nhau, tạo thành dòng chảy của cuộc đời. Cứ như vậy, suy nghĩ của chúng ta là kết quả của những suy nghĩ trong quá khứ, thậm chí có thể là từ những kiếp sống trước.
Suy nghĩ giống như những giọng nói bên trong nội tâm và ta không thể dừng nó lại. Nó xuất hiện khi thân xác này bắt đầu nhận thức được thế giới. Đó là những giọng nói không ngừng thúc đẩy ta. Ta không biết tại sao ta muốn một điều, ta không tự do khỏi mong muốn cá nhân. Khi ta “thức tỉnh” khỏi “giấc mơ” cá nhân, ta tự do khỏi mong muốn, và ở một “chiều cao hơn”, không có tính cá nhân nào.
Những suy nghĩ là sự kết hợp phức tạp giữa bản năng, ký ức và ảnh hưởng từ môi trường. Khi chúng ta nhận thức được tính tương đối của những tiếng nói này, chúng ta có thể vượt qua giới hạn của chúng và kết nối với một thực tại rộng lớn hơn. Nó là sự giao thoa giữa ý thức cá nhân và vũ trụ bao la.
Tinh thần là gì? “Tinh” nghĩa là tinh hoa, tinh túy, tinh khiết. Nó ám chỉ những gì quý giá nhất, là cốt lõi, bản chất của một sự vật, hiện tượng. “Thần” nghĩa là sự ám chỉ phần phi vật chất, không thể nhìn thấy, nhưng lại chi phối hành vi, tư tưởng và cảm xúc của con người. Tinh thần là năng lượng, là sức mạnh nội tại bên trong con người.
Nguồn năng lượng tinh thần từ đâu mà sinh ra? Ta có thể làm chủ hoặc thay đổi nó không?
Nhiều triết gia và tôn giáo quan niệm rằng tinh thần là một phần của vũ trụ, là sợi dây liên kết giữa con người với một thực tại cao hơn. Năng lượng tinh thần có thể được coi là một dạng năng lượng vũ trụ. Nó tồn tại trong mỗi con người như một dòng chảy nhỏ thuộc về cả dòng chảy lớn. Năng lượng tinh thần không có tiếng nói, nhưng nó là nguồn gốc tiềm ẩn của tiếng nói nội tâm. Nó chi phối và thúc đẩy ta trong lặng lẽ.
Có những động cơ sâu kín trong tâm hồn con người mà ta không hoàn toàn ý thức được. Đó là sự thúc đẩy vô hình tạo nên những ý muốn, và ta sẽ hành động theo tính cách của mình. Tính cách được tạo nên bởi những ý muốn vô thức, từ đó sẽ dẫn đến những gì mà ta theo đuổi và lựa chọn. Chúng ta luôn bị thúc đẩy để hình thành một tính cách nhất định, một “khuôn mẫu” nội tại dẫn dắt các hành động và lựa chọn, dẫn dắt chúng ta đến với kết cục mà có lẽ đã được định sẵn theo cách của vũ trụ.
Có những cơ hội và nguồn lực từ bên ngoài được trao cho ta. Nhưng ta lại không lựa chọn dựa trên “lợi ích tối đa”, mà thường thuận theo ý muốn vô thức. Số phận được định trước dựa trên những ý muốn vô thức và không thể nào thay đổi. Sự thúc đẩy từ vũ trụ đang làm chủ tâm trí con người, và nó không thể nào lựa chọn được ý muốn của mình.
Chúng ta thường gắn mác lẫn nhau thông qua tính cách. Đó là những lựa chọn hoặc sự thúc đẩy, từ đó cho thấy mong muốn của bản thân và người khác. Ta nhận ra rằng mong muốn không ổn định qua thời gian. Nó xuất hiện như từng đợt sóng năng lượng của biển cả vũ trụ và ta không thể kiểm soát được. Nguồn năng lượng đó luôn thay đổi bất thường. Hôm nay ta muốn một điều gì đó, nhưng ngày mai ta lại muốn điều khác. Điều đó có nghĩa là con người không bao giờ hoàn toàn giống nhau ở mọi thời điểm. Ta sẽ không thể tìm được chính mình (bản chất chân thật) trong những mong muốn. Mong muốn xuất hiện rồi lại biến mất, nhưng tồn tại một bản chất sâu xa, không thay đổi bên trong mỗi con người.
Mọi sinh vật đều là một phần của hệ sinh thái lớn. Chúng ta không thể tách rời khỏi môi trường xung quanh. Những mong muốn của chúng ta cũng không phải là sản phẩm của một cá nhân đơn lẻ mà là kết quả của sự tương tác giữa chúng ta với thế giới bên ngoài.
Một quyết định không phải chỉ bởi hoàn cảnh bên ngoài thúc đẩy, cũng không phải chỉ đến từ nơi sâu thẳm bên trong (một ý chí tách biệt), mà vì toàn thể vũ trụ bên trong và bên ngoài đã sẵn sàng (hội tụ đủ điều kiện).
Con người là một tiến trình hoạt động trong hình thức một thân xác, cái thân xác mà ta vẫn định nghĩa nó là sự sống. Và cái tiến trình đó cũng chỉ là một phần trong một tiến trình lớn hơn mà thôi. Cái lớn hơn chi phối cái nhỏ hơn. Nếu ta là một con cá trong dòng chảy, ta không thể thoát ra ngoài dòng chảy, nhưng cũng không thể thay đổi sự quyết định của dòng chảy đó. Những gì xảy ra với mỗi người là kết quả của một chuỗi sự kiện phức tạp, vượt xa tầm kiểm soát của cá nhân.
Ý tưởng về sự độc lập của cái “tôi” chỉ là một góc nhìn hạn hẹp, đó là sản phẩm đến từ sự giới hạn nhận thức của con người. Khái niệm “con người” thực chất là một phạm vi những đặc tính mà nó tự đồng hoá mình với những biểu hiện đó. Sự tồn tại của con người luôn cần gắn liền với môi trường sống của nó, con người vốn không độc lập.
Thân xác con người vốn không hoàn toàn thuộc về chính nó. Môi trường sống chi phối thân xác, nó lệ thuộc vào không khí, nhiệt độ, thức ăn, nước uống,… để tồn tại. Thân xác không độc lập và những suy nghĩ cũng thế, vậy thì cái “tôi” tách biệt là một ảo tưởng. Sự ích kỷ của cái “tôi” làm cho con người không thể hòa nhập với vũ trụ. Chỉ khi nào ta không thể vượt qua được giới hạn của bản thân, ta mới chịu nhìn vào khoảng trống thiếu sót của mình. Đó là khoảng trống vô hạn, nó có sức hút mãnh liệt thôi thúc ta khám những gì tiềm ẩn trong đó. Để khám phá khoảng trống này, con người cần vượt qua giới hạn của cái “tôi” và tìm kiếm sự kết nối với một cái gì đó lớn lao hơn.
Dòng chảy vũ trụ bao trùm và cũng tồn tại bên trong nội tại vạn vật, từ đó chi phối và kéo theo tất cả. Nhưng đa số chúng ta vẫn chấp nhặt vào tiểu tiết, và chỉ dám nghĩ trong thế giới quan của mình. Vậy nên, tâm trí không thể mở rộng để nhìn thấy cái bao quát và lớn lao hơn. Mỗi sự xuất hiện và biến mất, đến và đi đều là vì dòng chảy đó mà không bởi một nguyên nhân cụ thể nào. Đôi khi, ta phát hiện có nhiều thứ tương đồng xảy ra vào cùng một không gian và thời điểm. Đó là một sự biến chuyển lớn lao với sự tác động bao phủ lên những thứ thuộc nội vi của nó, và cái ý thức nhỏ bé trong nó thì khó mà có thể nhận ra được.
Đọc các bài tương tự tại link sau:
Tâm và Đạo: Tôi là ai? (Phần 1)
Tâm và Đạo: Luận bàn về nghiệp (Phần 3)