Góc nhìn nghệ thuật: Ý nghĩa của cái đẹp là gì?

MỤC LỤC

Ý nghĩa của cái đẹp là gì?

 

Cái đẹp là một yếu tố bắt nguồn từ nghệ thuật. Vì thế, hãy nói về nghệ thuật trước. Nghệ thuật là một phương tiện con người sử dụng để truyền tải thông điệp, cảm xúc và ý tưởng. Nghệ thuật không phải là cái đẹp, đó là góc nhìn hạn hẹp. Cái đẹp chỉ là một tiêu chuẩn trong nghệ thuật. Nghệ thuật là một công cụ để phục vụ cuộc sống con người. Và để công cụ đó phục vụ tốt hơn, chúng ta đặt ra các tiêu chuẩn cho nghệ thuật. Cái đẹp là một tiêu chuẩn trong đó. Vì thế, mục đích của cái đẹp là để đánh giá mức độ hiệu quả của nghệ thuật.

 

Vậy thì, cái đẹp là gì? Nó được tạo ra như thế nào?

 

Khởi đầu của nghệ thuật chỉ mang tính chất tái hiện lại. Nghệ thuật được truyền tải bằng cách tác động tới các giác quan của chúng ta, và theo các hình thức nhìn, nghe, đọc. Cái đẹp là một yếu tố liên quan đến thị giác. Đối với các môn nghệ thuật được truyền tải thông qua thị giác, chúng ta nghiên cứu về cảm nhận thị giác. Từ đó, tìm ra các tiêu chuẩn đánh giá nghệ thuật dựa trên những hiểu biết về thị giác. Và những tác phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn đó, chúng ta nói nó đẹp. Vì thế, cái đẹp là kết quả khi một tác phẩm hội tụ đầy đủ các tiêu chuẩn về thị giác mà chúng ta đặt ra.

 

Cái đẹp là một thứ thực dụng, chúng ta không muốn chỉ dừng lại ở sự vừa mắt, mà muốn tác động nhiều hơn đến người xem. Chúng ta tìm cách tạo ra nhiều cảm xúc hơn thông qua hình ảnh. Một tác phẩm không chỉ cần đẹp mà còn cần có ý nghĩa. Chúng ta bắt đầu tìm kiếm những nguyên liệu từ cuộc sống và chế biến chúng để thể hiện câu chuyện chúng ta muốn kể.

 

Bắt đầu từ đây, giá trị của một tác phẩm không chỉ dừng lại trong những khuỗn mẫu của thị giác. Nó chứa đựng nhiều hơn, nó chứa đựng câu chuyện. Vì thế, chúng ta thưởng thức một tác phẩm không chỉ vì nó đẹp, mà còn phải lắng nghe câu chuyện bên trong nó. Cái đẹp mang tính ứng dụng, không mang nhiều tính thưởng thức. Cái đẹp của các tác phẩm thì giống nhau, nhưng câu chuyện thì khác nhau. Chúng ta không phân biệt các tác phẩm bằng cái đẹp, mà phân biệt bằng câu chuyện được kể.

 

Chúng ta cố gắng kể những câu chuyện bằng ngôn ngữ hình ảnh. Để hiểu được tác phẩm, người xem phải đọc hiểu ngôn ngữ hình ảnh. Nhưng ngôn ngữ hình ảnh đôi khi không thể hiện được hết. Chúng chỉ mang tính chất gợi ý, và phần còn lại là trí tưởng tượng của người xem. Câu chuyện hay không phải câu truyện được kể chi tiết, mà là câu chuyện được kể vừa đủ. Tác phẩm hay luôn có khoảng trống để khán giả tự lấp đầy.

 

Để thưởng thức nghệ thuật, chúng ta phải có tính nhạy cảm với nghệ thuật. Nó chỉ có được thông qua kiến thức và trải nghiệm. Vì thế, nghệ thuật ứng dụng hiện diện mọi nơi trong cuộc sống. Nhưng nghệ thuật thưởng thức thì rất kén người xem.

 

Cái đẹp nhân tạo

 

Những cấu trúc trong tự nhiên thật hoàn hảo, sự đan xen của những cánh hoa, cấu trúc gân lá,… Chúng đẹp, nhưng chúng không phải nghệ thuật. Chúng ta không mang nguyên xi tự nhiên vào phòng trưng bày. Nghệ thuật không mang tính sẵn có, nó tôn vinh sự khám phá và tính sáng tạo.

 

Cái đẹp trong nghệ thuật không có sẵn mà được con người sáng tạo ra trong quá trình sống. Cái đẹp trong nghệ thuật là sự đúc kết của cái đẹp trong tự nhiên. Từ vô số những cái đẹp cụ thể, cá biệt, tản mạn khắp nơi trong cuộc sống, nghệ sĩ đã gom nhặt, chắt lọc, tinh luyện nên những cái đẹp mới. Đó là những cái đẹp hoàn chỉnh và điển hình, trong đó chứa đựng những nét chủ yếu, bản chất, tiêu biểu cho những cái đẹp cùng loại trong cuộc sống. Người ta đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp trong tự nhiên vì muốn đề cao sự làm chủ của con người với tự nhiên.

 

Có lẽ, tự nhiên đã mang trong mình vẻ đẹp trước khi con người xuất hiện. Nhưng nếu không có ai chứng kiến, một vẻ đẹp có còn đẹp? Không! Cái đẹp cần một “người quan sát” để tồn tại. Tự nhiên không có chủ ý, cái đẹp là một chủ ý, nó tồn tại trong không gian của ý thức. Có lẽ, cái đẹp là sợi dây liên kết trong sự “giao tiếp” giữa tự nhiên và con người. Nó là kết quả của quá trình con người “dịch ngôn ngữ của tự nhiên” thành cảm xúc và ý nghĩa.

 

Cái đẹp trong tự nhiên tồn tại ngẫu nhiên, phân mảnh và vô thức. Nghệ thuật, ngược lại, là kết quả của ý thức và lựa chọn có chủ đích. Tự nhiên có thể hỗn độn, nhưng nghệ thuật xây dựng trật tự, đó là câu chuyện của tư duy.

 

Nghệ thuật tạo ra “thế giới lý tưởng”. Đó là sự gom nhặt những mảnh vụn của hiện thực (cảnh vật, con người, sự kiện) để tổng hợp thành một tổng thể có ý nghĩa. Cái đẹp nghệ thuật đặt ra một “khuôn mẫu”, một ý niệm về vẻ đẹp điển hình, để khơi dậy trong chúng ta một rung cảm chung.

 

Khi tôn vinh vẻ đẹp nghệ thuật, ta nhấn mạnh khả năng biến thiên nhiên thành ý niệm, từ hiện tượng thô sơ thành hình thức có chủ ý. Nhưng việc đặt nghệ thuật lên trên tự nhiên lại là biểu hiện của sự kiêu ngạo nhân tạo.

 

Nghệ thuật là công cụ biểu đạt và xa hơn nữa

 

Cái đẹp trong nghệ thuật không đơn thuần chỉ là mô phỏng bề ngoài của cái đẹp tự nhiên. Nó không phải ký ức chân thực, mà là sự cô đọng, đúc kết từ cái đẹp tự nhiên. Người nghệ sĩ không sao chép tự nhiên một cách nguyên xi, mà chọn lọc những đặc trưng tinh túy nhất, biến đổi chúng để biểu đạt “bản chất” của sự vật qua lăng kính khám phá của mình.

 

Tiến thêm bước nữa thì nghệ thuật là phương tiện để “vật chất hóa” tâm hồn. Bằng cách mượn chất liệu hữu hình để thể hiện cái vô hình, người nghệ sĩ gửi gắm cảm xúc của mình vào trong tác phẩm. Van Gogh vẽ cơn lốc xoáy trên bầu trời trong bức họa “Đêm đầy sao” không phải để tả cảnh, mà để diễn tả nỗi bất an trong tâm hồn ông.

 

Nghệ thuật trở thành con đường truyền tải cảm xúc, và nghệ sĩ là người đem bán những rung động mới lạ.

 

Con người nhiều cảm xúc, và nó cần phương tiện để tuôn trào. Nhưng ngôn từ có giới hạn nên nghệ sĩ cần thể hiện cảm xúc theo cách đặc biệt hơn. Nghệ thuật, thơ ca và các hình thức biểu đạt sáng tạo khác cố gắng vượt qua những giới hạn đó bằng cách sử dụng ẩn dụ, tượng trưng, gợi ý nhằm khơi gợi cảm xúc. Đôi khi, một bức tranh, một câu thơ có thể chạm đến những tầng sâu cảm xúc mà một mô tả chi tiết bằng ngôn ngữ thông thường khó đạt được.

 

Đó là thứ ngôn ngữ màu nhiệm, giúp đào sâu vào tầng nghĩa thứ hai, thứ ba, kích thích người thưởng thức tự liên tưởng và suy ngẫm. Nó khiến ta phải suy tư, đối thoại, khám phá những lớp nghĩa ẩn sau vẻ đẹp bề mặt.

 

Nghệ thuật không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt, mà còn mang tính chất gợi mở. Nó phải vừa đủ “mở” để mọi người đặt vào đó cảm xúc, ký ức và khát khao của chính mình. Tác phẩm chỉ hoàn chỉnh khi gặp được người tiếp nhận. Ý nghĩa tác phẩm được sinh ra từ tương tác chứ không phải từ ý đồ sáng tạo ban đầu. Đó là việc giải phóng nghệ thuật khỏi sự độc tôn của ý đồ tác giả. Mỗi người thưởng thức sẽ tìm thấy ý nghĩa riêng. Tác phẩm nghệ thuật không nhả hết ý nghĩa ngay lập tức mà để lại “khoảng trống” cho mỗi người tự điền vào, tạo nên trải nghiệm cá nhân. Đó là sự chuyển dịch từ tính “định hướng” đến “tự do” cảm nhận.

 

Mối liên kết giữa văn hóa và nghệ thuật

 

Tính cách bên trong được hình thành qua bẩm sinh và bối cảnh sống. Khi tính cách đó bộc lộ ra ngoài, kết quả là một hình thức biểu đạt. Văn hóa là gì? Văn là chỉ hình thức biểu đạt, hóa là chỉ sự hình thành. Khi một cộng đồng qua thời gian hình thành nên một hình thức biểu đạt cụ thể, nó mang trong mình một bản sắc và tạo nên một nền văn hóa.

 

Nghệ thuật là phương tiện truyền đạt của một nền văn hóa. Vì vậy, nói đến phong cách nghệ thuật là nói đến cái tính cách đặc trưng trong cách truyền đạt, nó là sự phản ánh của văn hóa và được đúc rút để trở thành một hệ tư tưởng. Mỗi vị trí địa lý và giai đoạn lịch sử lại có sự thay đổi trong bối cảnh, và cũng tùy thuộc vào mỗi giống nòi hay dân tộc thì phong cách nghệ thuật lại có những đặc trưng riêng.

 

Cái đẹp thuần khiết

 

Cái đẹp mang nhiều dáng vẻ, có thể rực rỡ hoặc tăm tối, có thể mỹ lệ hoặc mộc mạc, có thể tươi tắn hoặc u sầu. Sức mạnh của cái đẹp nằm ở khả năng khơi dậy những rung động. Biểu hiện của cái đẹp là cảm xúc, nó là tiếng nói của khát khao, của sự đồng cảm, hoặc nó đã chạm đến một vết thương, một sự yếu đuối trong sâu kín.

 

Nhưng chúng ta không thể lý giải những cảm xúc đó, vì nó bắt nguồn từ sự nhạy cảm, một bản năng nguyên thủy, nó không cần lý giải. Cái đẹp chân chính không cần biện minh, nó gây xúc động trước khi ta kịp phân tích. Không ngôn từ nào có thể mô tả cảm nhận chân thật, một lực hấp dẫn tự nhiên mà chẳng cần qua một quá trình nào cả.

 

Khi hình thành xã hội, cái đẹp bị nhuốm màu bởi văn hóa, trải nghiệm và mục đích. Cái đẹp không phải giá trị khan hiếm, nó là thứ phi lợi ích. Khi cái đẹp bị đóng khung bởi lợi ích, nó đánh mất sự thuần khiết. Văn hóa thiết lập chuẩn mực thẩm mỹ, biến cái đẹp thành công cụ để củng cố giá trị cộng đồng. Đó là khi cái đẹp chạy theo mục đích, những cái đẹp công nghiệp. Chúng ta chỉ còn biết “đẹp” theo chuẩn mực, chứ không còn rung động thật sự. Cái đẹp không cần được “làm đẹp” bởi nghệ thuật hay văn hóa. Nó chỉ cần được cảm nhận bằng trái tim không định kiến.

 

Con người dùng nghệ thuật để biến đổi cái đẹp tự nhiên, nhưng đồng thời cũng tạo ra những chuẩn mực mới, đôi khi xa rời gốc rễ. Nhiều nền văn hóa và giai đoạn lịch sử có thể có các tiêu chuẩn thẩm mỹ khác nhau, mỗi “thời kỳ nghệ thuật” lại đúc kết ra một hình mẫu vẻ đẹp riêng, phản ánh quan niệm, giá trị của con người thời đó.

 

Bất cứ điều gì phải qua sự dẫn dắt đều là thao túng, hoặc là tự lừa dối chính mình. Cái đẹp không thể xuất phát từ định kiến hay dạy dỗ, đó là sự lạc lối có chủ đích. Chúng ta chấp nhận sống trong ảo tưởng đó vì những ràng buộc xã hội.

 

Cái đẹp không phải thứ con người sáng tạo ra, nó là thứ có sẵn. Nó là sự thúc đẩy tự nhiên, và tự nhiên trong chính con người. Con người phô trương cái tôi của mình qua nhiều hình thức nghệ thuật, nhưng chưa bao giờ thoát khỏi tiếng nói cội nguồn của mình. Trong ảo tưởng về sự tách biệt với tự nhiên, con người tin rằng sự sáng tạo đó là của riêng mình.

 

“Chủ nhân sáng tạo” là một ảo tưởng của cái tôi. Nghệ sĩ không phải là người phát minh ra cái đẹp từ hư vô. Con người không thực sự sáng tạo mà “phản chiếu”. Khi sáng tạo, ta tin rằng mình đang định nghĩa lại cái đẹp, nhưng thực chất chỉ là kéo cái đẹp tự nhiên vào khuôn khổ của mình.

 

Con người không sáng tạo mà “phản chiếu”. Nghệ thuật là việc tìm cách tái tạo sự rung động trước vẻ đẹp. Khi ta vẽ, khi ta viết, cái tôi chỉ là chiếc loa khuếch đại tiếng nói ấy, chứ chưa bao giờ tạo ra “nguồn thanh âm” lần đầu. Chúng ta chỉ là kẻ “học trò” đang mò mẫm bắt chước lại những hình mẫu hoàn hảo ấy. Tuy nhiên, cũng nên trân trọng nỗ lực không ngừng của nhân loại trong việc tìm cách diễn đạt lại tiếng thì thầm vĩnh hằng ấy.

 

Nghệ thuật như chiếc gương, mọi dấu vết cá nhân, mọi thủ pháp kỹ thuật, chỉ là cách để nghệ sĩ đánh bóng gương, nhằm phản chiếu rõ hơn vẻ đẹp nội tại.

 

Chuyên gia và nghệ sĩ

 

Một chuyên gia và một nghệ sĩ. Một kẻ tìm tòi ở thế giới bên ngoài, một kẻ thì quay vào bên trong. Chuyên gia đi tìm mối liên hệ chung. Nghệ sĩ đi tìm cá tính riêng của mình, anh ta mang tính cá nhân vào mọi thứ.

 

Đứng trước cái đẹp, chuyên gia tìm cách mổ xẻ nó, đong đếm nó và tìm một ngôn từ cho nó. Người nghệ sĩ thì chỉ lắng nghe cảm nhận của mình. Anh ta không tìm cách ngôn từ hóa nó, đối với anh ta mọi ngôn từ đều dẫn đến sai lệch.

 

Thế giới nghệ thuật là thế giới của cái phi lý, cảm nhận trở nên quan trọng hơn. Bởi thế mà chuyên gia cảm thấy nghệ thuật thật khó hiểu, chỉ vì anh ta luôn muốn tìm ra lý do. Cái đẹp không phải là vật chất, nó là phi vật chất, càng mổ xẻ càng vô nghĩa, ta chẳng thể giải mã được, chẳng ngôn từ nào có thể mô tả được. Chúng ta dễ bám chấp vào ngôn từ. Chúng ta học ngôn ngữ nhưng kèm theo đó là những quy ước gắn vào ngôn ngữ đó. Chúng chẳng bao giờ thể hiện được hết. Chúng vô hình chung làm cho ta bị giới hạn vào những khuôn mẫu.

 

Vẻ đẹp thực sự phải là thứ vẻ đẹp không lời. Nghệ thuật có thể giảm đi khoảng cách và tạo ra những điểm chạm, nhưng không phải nhờ ngôn từ nào cả. Nếu cứ chạy theo những lý lẽ ta sẽ bị ngôn từ dẫn dắt, ngôn từ sẽ dẫn dắt ta ra khỏi sự thấu cảm. Lý trí truyền đạt bằng ngôn từ, nhưng chỉ trong im lặng trái tim mới lên tiếng.

 

Tri thức và thấu cảm là hai chiều hướng khác nhau. Tri thức là thông tin. Ta có thể thu nạp nó, tích lũy nó, nhưng điều đó không đưa ta tới thấu cảm. Trái tim là trung tâm của thấu cảm, cái đầu là trung tâm của tri thức. Ta thấu cảm thông qua trái tim, ta trở thành người có tri thức thông qua cái đầu. Cái đầu có thể biết nhiều mà lại chẳng biết gì hết.

 

Chúng ta chỉ có thể rơi vào một trong hai trạng thái: cảm nhận hoặc tư duy. Thứ này hiện diện thì thứ kia vắng mặt. Khi ta tập trung cảm nhận thì không thể tư duy. Khi ta tập trung tư duy thì mọi rung động của cảm nhận cũng tan biến.

 

Tâm trí của chuyên gia như một thứ máy móc, anh ta không ngừng nạp thêm cho nó những khái niệm. Nhưng tâm trí dù được vun đắp bao nhiêu chăng nữa, vẫn cứ mắc kẹt lại với những cái đã biết, cái mới lại củng cố thêm cho cái cũ. Tâm trí đó hoàn toàn bị kiềm tỏa và trở nên tĩnh tại. Nó khiến anh ta không thể chuyển động tự do, không thể chuyển động như một vũ điệu.

 

Tại sao cảm nhận thẩm mỹ của chúng ta khác nhau?

 

Cái đẹp không nằm ở vật thể, mà nằm ở mối quan hệ giữa vật thể đó và cách tâm trí xử lý nó.

 

Mọi đôi mắt đều cùng nhìn một phiên bản. Mọi đôi tai đều cùng nghe một giai điệu. Tại sao với mỗi người chúng trở nên khác nhau?

 

Mắt thấy đẹp, nhưng cái đẹp đó không phải do mắt. Tai nghe hay, nhưng cái hay đó không phải do tai. Các giác quan chỉ quyết định kiểu thông tin mà ta thu nhận. Vai trò của mắt là thấy, vai trò của tai là nghe, còn cái đẹp cái hay là do nội tâm này quyết định. Biểu hiện cái đẹp là vật lý, nhưng bản chất cái đẹp lại là tâm lý. Sự quyết định cho cái đẹp không nằm ở vật thể, mà do định kiến và cách tư tưởng tự định nghĩa. Vì vậy, sự đáp ứng về mặt thẩm mỹ trong sâu xa lại chính là sự đáp ứng về mặt tư tưởng.

 

Như nhận định của Temple Grandin: “Tư duy thị giác không phải là về cách chúng ta nhìn mà là về cách não xử lý thông tin, về cách chúng ta suy nghĩ và nhận thức.”

 

Hiệu ứng thị giác thực ra là các thói quen tâm lý từ các ký ức hình ảnh, mà ta thu nhận qua các tình huống quan sát được.

 

Có lẽ, từ sự nhận biết này mà Nghệ thuật Ý niệm tồn tại với việc đề cao vai trò của tư tưởng hơn tác phẩm vật lý. Nói cách khác, tác phẩm hữu hình chỉ là phương tiện. Ý tưởng đằng sau tác phẩm quan trọng hơn hình thức hay kỹ năng, kỹ thuật.

 

Điều này thể hiện ở việc phủ nhận tính “độc bản” của tác phẩm. Trong tác phẩm quả chuối dán lên tường (của nghệ sĩ Maurizio Cattelan): “Người mua không sở hữu quả chuối mà là một ý tưởng. Khi trái cây bị hỏng, họ chỉ cần thay thế, dán lại như hướng dẫn và nó vẫn được coi như nguyên bản.”

 

Cái đẹp đối với mỗi người lại khác nhau. Mỗi cá nhân là một biến số, tần số khác nhau. Điều đó khiến cho cái đẹp là sự tương đối, sự biến thiên. Nếu cái đẹp nào không đúng với tư tưởng của ta thì ta không thấy nó đẹp. Xem tranh cũng như chọn người, cần sự tương đồng nhất định mới có thể cảm nhận được tranh.

 

Tôi thấy xấu, bạn thấy đẹp. Tôi thích phong cách này hơn, bạn thích phong cách kia hơn. Cảm nhận thẩm mỹ có thể phụ thuộc vào các yếu tố như tính cách, trải nghiệm, giáo dục và văn hoá. Những điều này tạo nên nhận thức của mỗi cá nhân. Nếu xấu đẹp là thuộc về cân bằng thị giác, thì quan điểm xấu đẹp của chúng ta hàm chứa nhiều hơn thế, và nó trở thành biến số. Chúng ta đưa những góc nhìn cá nhân mạnh mẽ vào trong nó, lúc này yếu tố cân bằng thị giác chỉ đóng một vai trò rất nhỏ bé. Điều này luôn xảy ra với những người không được qua đào tạo, vì thế quan điểm xấu đẹp của họ hoàn toàn đến từ quá trình trải nghiệm cá nhân và những nhận định mơ hồ.

 

Có nghĩa là nghệ thuật chỉ dành cho đối tượng đã được qua đào tạo thôi sao? Và các tác phẩm nghệ thuật chỉ dành cho các nghệ sĩ chứ không dành cho tất cả mọi người? Tất nhiên điều này không đúng.

 

Phần lớn đối tượng của nghệ sĩ là những người không được qua đào tạo. Tác phẩm nghệ thuật không làm ra chỉ để cho bản thân người làm ra đánh giá, đó là những tác phẩm vô giá trị, chúng không có tính ứng dụng hay phục vụ nhu cầu nào của người khác. Giá trị của chúng phải được đánh giá bởi đối tượng chúng hướng đến. Các nghệ sĩ cố gắng thể hiện tác phẩm của mình để phù hợp nhất với những đối tượng mình cần hướng đến. Với những nghệ sĩ muốn kể câu chuyện của riêng mình, họ cũng có mong muốn đem nó đến với mọi người.

 

Đa số các tác phẩm không thể chạm đến tất cả mọi người, vì chúng chỉ có thể đáp ứng một nhóm đối tượng cụ thể. Nhóm đó có đặc trưng riêng về tính cách, trải nghiệm, giáo dục và văn hoá. Vì thế, những nhóm đối tượng nằm ngoài không thể cảm nhận được ý đồ mà nghệ sĩ thể hiện. Chúng ta thường dùng các phương tiện truyền thông theo nhiều hình thức diễn tả, giải thích, kể chuyện,… để mở rộng nhóm đối tượng của mình, đưa tác phẩm đến với nhiều người hơn.

 

Người họa sĩ và doanh nghiệp

 

Hoạ sĩ là người kể câu chuyện của riêng mình, hoặc kể lại câu chuyện của người khác theo cách của riêng mình. Doanh nghiệp là người bán hàng, người bán hàng là người đi kể chuyện. Người hoạ sĩ đem câu chuyện của doanh nghiệp vào thiết kế và áp dụng các tiêu chuẩn về thị giác để có một sản phẩm đẹp. Hoạ sĩ cố gắng thể hiện câu chuyện một cách hiệu quả nhất. Ý tưởng thiết kế là cách mà hoạ sĩ thể hiện câu chuyện. Ý tưởng không phải là câu chuyện. Hoạ sĩ lắng nghe câu chuyện của doanh nghiệp và kể lại nó theo ý tưởng của mình. Vậy thì, hoạ sĩ sáng tạo cái gì? Hoạ sĩ không sáng tạo câu chuyện, mà sáng tạo ra nhiều cách thể hiện câu chuyện.

 

Chia sẻ:
Facebook
Bài viết liên quan

Giác quan của con người là những bộ lọc hữu hạn. Thị lực, thính lực, xúc giác,… đều có ngưỡng trên và ngưỡng dưới. Thực tại mà ta trải nghiệm hàng ngày chỉ là một phiên bản rút gọn của thế giới khách quan, được chọn lọc và giới hạn...

Có phải cứ nhiều chi tiết mới là giàu có? Tối giản không phải là nghèo nàn, mà là năng lực nhận ra cái cốt lõi.   Tối giản không đơn thuần là loại bỏ để trở nên trống rỗng. Một căn phòng trống trơn không phải là tối giản...

Chủ nghĩa Siêu thực chỉ ra một con đường tiếp cận những lĩnh vực mà lý trí đã bỏ qua: thế giới của giấc mơ và vô thức. Đó là sự hiểu biết toàn diện hơn về bản thân và hiện thực, vượt ra ngoài giới hạn của lý trí....

Nghệ thuật từng được dùng để chỉ sự xuất sắc trong một công việc: nghệ thuật đóng giày, nghệ thuật rèn đúc,… Nhưng khi đã làm tốt nhất việc đó rồi, cái ta muốn tiếp theo là một sự đổi mới, và trong vòng lặp của sự phát triển, nghệ...

NỔI BẬT
Theo dõi chúng tôi trên MXH:
Liên hệ:
contact.hbth@gmail.com
© 2023 hatbuitamhon. All rights reserved.
Scroll to Top